Tin tức
on Tuesday 17-05-2022 8:16am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
Đa hình nhiễm sắc thể (chromosomal polymorphism - CPM) được coi là sự thay đổi số lượng hoặc vị trí trong dị nhiễm sắc thể (NST) DNA cấu thành, thường xảy ra ở vùng tâm động của NST 1,9,16,Y và các nhánh ngắn của NST hướng tâm (acrocentric chromosomes – ACRs), chẳng hạn như ở nhóm D và G (NST 13,14,15,21 và 22); từ đó tác động đến sự liên kết thoi vô sắc, di chuyển của NST và gắn kết giữa nhiễm sắc tử chị em. Một số nghiên cứu cho rằng CPM là một kiểu nhân (karyotype) bình thường không ảnh hưởng đến chức năng và liên quan kiểu hình trong khi số khác lại nhận định CPM có ảnh hưởng nhất định đến những người vô sinh và sẩy thai liên tiếp (recurrent pregnancy loss – RPL). Cụ thể là các biến thể đa hình ở những người vô sinh cao hơn ở những người có khả năng sinh sản bình thường lần lượt là 5,53% và 3,74%. Bên cạnh đó, tỉ lệ sẩy thai tự nhiên và sinh non ở phụ nữ vô sinh với CPM cao hơn đáng kể so với người kiểu nhân bình thường. Ngoài ra, yếu tố giới tính của người mang đa hình gene cũng được xem xét là có liên quan như tần suất xuất hiện của gene này ở nam giới cao hơn nữ giới trong các trường hợp RPL, chủ yếu liên quan đến NST Y. Điều này dẫn đến số lượng và chất lượng tinh trùng bị suy giảm nhiều. Hơn nữa, tỉ lệ chuyển phôi đầu tiên và tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn của nhóm nam CPM thấp hơn đáng kể so với nhóm nữ CPM và nhóm bình thường khi thực hiện IVF hoặc ICSI. Do đó, mục đích của bài nghiên cứu là tìm hiểu xem liệu CPM và giới tính của người mang đa hình gene có ảnh hưởng đến kết quả mang thai không cũng như đưa ra các hướng dẫn lâm sàng về kết quả sinh sản của các cặp vợ chồng RPL không rõ nguyên nhân mang đa hình gene.
Đây là bài phân tích hồi cứu bao gồm 585 cặp vợ chồng đã trải qua RPL không rõ nguyên nhân (unexplained RPL – uRPL) từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2020, phân thành 3 nhóm khác nhau gồm 415 cặp có NST bình thường (a), 113 cặp có nam với CPM (b) và 57 cặp có nữ với CPM (c). Tất cả các cặp đều được xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (preimplantation genetic testing – PGT) ít nhất một chu kỳ. Sau khi kích thích buồng trứng, chọc hút thu cụm noãn và tiến hành ICSI rồi nuôi cấy phôi đến ngày 5/ngày 6 thì có khoảng 2460 phôi nang được sinh thiết và xét nghiệm PGT-A bằng next-generation sequencing (NGS) và được trữ lại. Chỉ những phôi có kết quả nguyên bội mới được chuyển vào tử cung người vợ sau đó.
Kết quả cho thấy:
Một số nghiên cứu đưa ra thống kê rằng các cặp vợ chồng có tiền sử RPL thường có tỉ lệ phân mảnh DNA tinh trùng cao hơn đáng kể và tỉ lệ tinh trùng có hình dạng bình thường thấp hơn so với việc phụ nữ sử dụng biện pháp tránh thai. Tinh trùng lệch bội và phân mảnh DNA có thể liên quan đến sự tái tổ hợp bất thường trong giảm phân. Tỉ lệ đa hình gene cao ở nam giới có thể gây ảnh hưởng đến sự kết cặp NST và ngừng giảm phân. Từ đó, cùng với kết quả của dữ liệu trên, có thể thấy các biển thể đa hình ở nam giới, phân mảnh DNA tinh trùng và tiền sử RPL có mối liên hệ nhất định với nhau.
Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn nhiều hạn chế như là chưa có sự đầu tư toàn diện để báo cáo tác động của CPM ở các cặp uRPL đối với sự phát triển của phôi có PGT. Bên cạnh đó, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê đối với nam và nữ trong bài này có lẽ là do cỡ mẫu của nhóm c không phù hợp. Vì vậy, các kết quả trên cần được xác nhận lại với các nghiên cứu bổ sung trên cỡ mẫu lớn hơn.
Tóm lại, kết quả chính của nghiên cứu này là chất lượng phôi của các nhóm b và c là khác nhau ở bệnh nhân uRPL, nam giới mang CPM có tỉ lệ phôi nang thấp hơn và tỉ lệ phôi lệch bội cao hơn so với nữ giới mang CPM nhưng không có sự khác biệt về tỉ lệ thai lâm sàng. Do đó, các số liệu này cho thấy mối tương quan giữa CPM và yếu tố giới tính đến chất lượng phôi. Sàng lọc phôi có thể là lựa chọn tốt cho những người nam mang đa hình gene có tiền sử uRPL. Chẳng những vậy, PGT còn cung cấp một số hướng dẫn về khả năng sinh sản cho các cặp vợ chồng uRPL và giảm sự xuất hiện của uRPL, đặc biệt là ở nam giới.
Nguồn: Cao M.Z, Zhang Q, Zhou W và cộng sự. Analysis of aneuploidy rate and pregnancy outcomes in unexplained recurrent pregnancy loss couples with chromosome polymorphism after PGT-A. 2022 Mar 31.
Đa hình nhiễm sắc thể (chromosomal polymorphism - CPM) được coi là sự thay đổi số lượng hoặc vị trí trong dị nhiễm sắc thể (NST) DNA cấu thành, thường xảy ra ở vùng tâm động của NST 1,9,16,Y và các nhánh ngắn của NST hướng tâm (acrocentric chromosomes – ACRs), chẳng hạn như ở nhóm D và G (NST 13,14,15,21 và 22); từ đó tác động đến sự liên kết thoi vô sắc, di chuyển của NST và gắn kết giữa nhiễm sắc tử chị em. Một số nghiên cứu cho rằng CPM là một kiểu nhân (karyotype) bình thường không ảnh hưởng đến chức năng và liên quan kiểu hình trong khi số khác lại nhận định CPM có ảnh hưởng nhất định đến những người vô sinh và sẩy thai liên tiếp (recurrent pregnancy loss – RPL). Cụ thể là các biến thể đa hình ở những người vô sinh cao hơn ở những người có khả năng sinh sản bình thường lần lượt là 5,53% và 3,74%. Bên cạnh đó, tỉ lệ sẩy thai tự nhiên và sinh non ở phụ nữ vô sinh với CPM cao hơn đáng kể so với người kiểu nhân bình thường. Ngoài ra, yếu tố giới tính của người mang đa hình gene cũng được xem xét là có liên quan như tần suất xuất hiện của gene này ở nam giới cao hơn nữ giới trong các trường hợp RPL, chủ yếu liên quan đến NST Y. Điều này dẫn đến số lượng và chất lượng tinh trùng bị suy giảm nhiều. Hơn nữa, tỉ lệ chuyển phôi đầu tiên và tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn của nhóm nam CPM thấp hơn đáng kể so với nhóm nữ CPM và nhóm bình thường khi thực hiện IVF hoặc ICSI. Do đó, mục đích của bài nghiên cứu là tìm hiểu xem liệu CPM và giới tính của người mang đa hình gene có ảnh hưởng đến kết quả mang thai không cũng như đưa ra các hướng dẫn lâm sàng về kết quả sinh sản của các cặp vợ chồng RPL không rõ nguyên nhân mang đa hình gene.
Đây là bài phân tích hồi cứu bao gồm 585 cặp vợ chồng đã trải qua RPL không rõ nguyên nhân (unexplained RPL – uRPL) từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2020, phân thành 3 nhóm khác nhau gồm 415 cặp có NST bình thường (a), 113 cặp có nam với CPM (b) và 57 cặp có nữ với CPM (c). Tất cả các cặp đều được xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (preimplantation genetic testing – PGT) ít nhất một chu kỳ. Sau khi kích thích buồng trứng, chọc hút thu cụm noãn và tiến hành ICSI rồi nuôi cấy phôi đến ngày 5/ngày 6 thì có khoảng 2460 phôi nang được sinh thiết và xét nghiệm PGT-A bằng next-generation sequencing (NGS) và được trữ lại. Chỉ những phôi có kết quả nguyên bội mới được chuyển vào tử cung người vợ sau đó.
Kết quả cho thấy:
- Tỉ lệ thụ tinh giữa 3 nhóm a,b,c là tương đương nhau (79,5%; 78,1% và 81,1%; p=0,348).
- Tỉ lệ tạo phôi nang ở nhóm b thấp hơn khi so với nhóm a và c (48,3%; 53,9% và 54,1%; p <0,05).
- Tỉ lệ phôi lệch bội ở nhóm b cao hơn nhiều so với nhóm c (29,5% và 18,6%; p=0,003).
- Tỉ lệ sẩy thai, tỉ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống không có khác biệt thống kê giữa 3 nhóm (p>0,05).
- Hầu hết là loại ACR (acrocentric chromosome) chiếm tỉ lệ 30,3% trong tất cả các loại của CPM và NST 21 là nhiều nhất ở loại này. Sự bất thường NST 21 là nguyên nhân chính của sẩy thai.
- Đa hình gene phổ biến nhất được quan sát thấy ở nhóm b là biến thể NST Y (31,1%).
- Sự bất thường NST 16 chiếm tỉ lệ cao nhất ở phôi lệch bội của nhóm b và c; kế đến là NST 22 và NST 1.
- Nam giới với CPM có tác động xấu đến sự phát triển của phôi.
Một số nghiên cứu đưa ra thống kê rằng các cặp vợ chồng có tiền sử RPL thường có tỉ lệ phân mảnh DNA tinh trùng cao hơn đáng kể và tỉ lệ tinh trùng có hình dạng bình thường thấp hơn so với việc phụ nữ sử dụng biện pháp tránh thai. Tinh trùng lệch bội và phân mảnh DNA có thể liên quan đến sự tái tổ hợp bất thường trong giảm phân. Tỉ lệ đa hình gene cao ở nam giới có thể gây ảnh hưởng đến sự kết cặp NST và ngừng giảm phân. Từ đó, cùng với kết quả của dữ liệu trên, có thể thấy các biển thể đa hình ở nam giới, phân mảnh DNA tinh trùng và tiền sử RPL có mối liên hệ nhất định với nhau.
Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn nhiều hạn chế như là chưa có sự đầu tư toàn diện để báo cáo tác động của CPM ở các cặp uRPL đối với sự phát triển của phôi có PGT. Bên cạnh đó, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê đối với nam và nữ trong bài này có lẽ là do cỡ mẫu của nhóm c không phù hợp. Vì vậy, các kết quả trên cần được xác nhận lại với các nghiên cứu bổ sung trên cỡ mẫu lớn hơn.
Tóm lại, kết quả chính của nghiên cứu này là chất lượng phôi của các nhóm b và c là khác nhau ở bệnh nhân uRPL, nam giới mang CPM có tỉ lệ phôi nang thấp hơn và tỉ lệ phôi lệch bội cao hơn so với nữ giới mang CPM nhưng không có sự khác biệt về tỉ lệ thai lâm sàng. Do đó, các số liệu này cho thấy mối tương quan giữa CPM và yếu tố giới tính đến chất lượng phôi. Sàng lọc phôi có thể là lựa chọn tốt cho những người nam mang đa hình gene có tiền sử uRPL. Chẳng những vậy, PGT còn cung cấp một số hướng dẫn về khả năng sinh sản cho các cặp vợ chồng uRPL và giảm sự xuất hiện của uRPL, đặc biệt là ở nam giới.
Nguồn: Cao M.Z, Zhang Q, Zhou W và cộng sự. Analysis of aneuploidy rate and pregnancy outcomes in unexplained recurrent pregnancy loss couples with chromosome polymorphism after PGT-A. 2022 Mar 31.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Kết quả mang thai sau chuyển phôi đông lạnh (IVF-FET) có thực hiện và không thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ sàng lọc phôi lệch bội (PGT-A) ở những phụ nữ bị sẩy thai liên tiếp (RPL): nghiên cứu SART-CORS - Ngày đăng: 17-05-2022
Chỉ số khối cơ thể ở người nam cao hơn bình thường sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh và sự phát triển của phôi tiền làm tổ - Ngày đăng: 17-05-2022
Tối ưu thời điểm tiêm tinh trùng vào bào tương noãn sau khi nuôi trưởng thành noãn non GV trong IVM sử dụng hệ thống time – lapse - Ngày đăng: 17-05-2022
ESHRE JOURNAL CLUB: PGT có phải là trò chơi về con số? Hiệu quả của PGT và tầm quan trọng của sự đồng thuận - Ngày đăng: 09-05-2022
Suy giảm khả năng sửa chữa DNA: cơ chế giải thích cho tiềm năng phát triển thấp của những phôi phát triển giai đoạn sớm sau thụ tinh từ noãn các bệnh nhân bị thừa cân điều trị IVF - Ngày đăng: 05-05-2022
Các yếu tố nguy cơ liên quan đến sẩy thai trong điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 04-05-2022
Ảnh hưởng của các phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung đến nguy cơ thai ngoài tử cung trong các chu kỳ chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 04-05-2022
Kinh nghiệm mười lăm năm tại trung tâm có ngân hàng tinh trùng cho bệnh nhân ung thư: Việc sử dụng và kết quả điều trị của những bệnh nhân còn sống - Ngày đăng: 02-05-2022
Mang thai thành công, sinh con và sự phát triển của trẻ em sau khi đông lạnh noãn ở bệnh nhân nữ ung thư trong suốt 25 năm bảo tồn khả năng sinh sản - Ngày đăng: 24-04-2022
Các yếu tố liên quan đến thảo luận về bảo tồn khả năng sinh sản trên 1.357 bệnh nhân ung thư vú điều trị bằng hoá trị - Ngày đăng: 24-04-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK