Tin tức
on Thursday 21-04-2022 11:34am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Quốc Việt – IVFMD Phú Nhuận
Noãn bào kích thước lớn (Giant oocytes – GOs) là một dạng bất thường về hình thái noãn hiếm gặp trong thụ tinh trong ống nghiệm. Tuy nhiên, thoạt nhìn những noãn này có thể bị nhầm với các noãn bình thường do không có tiêu chuẩn rõ ràng. Các đặc điểm về hình thái và chất lượng của GOs vẫn chưa được làm rõ, đường kính của GOs xấp xỉ gấp đôi so với noãn bình thường và có 2 hạt nhân ở giai đoạn prophase I.
Đối với các đặc điểm về di truyền, GOs mang bộ nhiễm sắc thể (NST) lưỡng bội (2n). Ngoài ra, GOs còn được tìm thấy ở dạng lệch bội NST và các dạng đột biến cấu trúc NST như mất đoạn và lặp đoạn. Chính vì thế GOs được xem như mang các bất thường về NST và việc sử dụng GOs trong điều trị lâm sàng có thể gây thất bại làm tổ hoặc sẩy thai. Hiện tại có rất ít nghiên cứu phân tích về GOs, do đó nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định tiêu chuẩn chẩn đoán kích thước của GOs, đồng thời xác định tính chính xác của tiêu chuẩn bằng cách đánh giá số lượng NST ở các GOs này bằng việc đo kích thước và số lượng thoi vô sắc kèm theo số lượng tâm động.
Phương pháp:
Đây là một nghiên cứu hồi cứu trên 254.337 noãn từ 26.940 chu kì điều trị của những phụ nữ từ 20 – 49 tuổi đã trải qua quá trình kích thích buồng trứng trong giai đoạn từ tháng 1/2014 đến tháng 12/2020.
Nghiên cứu tiến hành đánh giá ngẫu nhiên 50 noãn được cho là GOs và 50 noãn MII có kích thước bình thường để đo đường kính noãn và đường kính tế bào chất (không bao gồm màng ZP). Các noãn được nhuộm miễn dịch huỳnh quang, phân nhóm GOs thành 2 nhóm nhỏ để đánh giá là GO1 với 1 thoi vô sắc và GO2 với 2 thoi vô sắc, 47 GOs được lấy ngẫu nhiên để đánh giá các bất thường về thoi vô sắc. Trong số 47 GOs này, 16 noãn ở nhóm GOs và MII được đo đường kính của thoi vô sắc. 16 noãn ở mỗi nhóm được lấy mẫu ngẫu nhiên và nhuộm miễn dịch để xác định số lượng tâm động.
Kết quả:
Kết luận:
Mặc dù nghiên cứu vẫn chưa thể kết luận về kết quả lâm sàng của GOs khi chỉ dựa trên một đặc điểm hình thái duy nhất, tuy nhiên nghiên cứu đã xác định được noãn có đường kính tế bào chất từ 130 μm trở lên được xem là GOs. Ngoài ra, khi GOs có 2 thoi vô sắc có thể kết luận rằng noãn mang bất thường NST và cũng có trường hợp noãn mang bộ NST lưỡng bội ngay cả trong trường hợp GOs chỉ có 1 thoi vô sắc. Do đó, GOs được cho là bất thường và cần được xem xét cẩn thận trước khi sử dụng trong điều trị lâm sàng.
Nguồn: Kitasaka, H., et al., Oocyte cytoplasmic diameter of ≥ 130 μm can be used to determine human giant oocytes. 2022. 3(1): p. 10-17.
Noãn bào kích thước lớn (Giant oocytes – GOs) là một dạng bất thường về hình thái noãn hiếm gặp trong thụ tinh trong ống nghiệm. Tuy nhiên, thoạt nhìn những noãn này có thể bị nhầm với các noãn bình thường do không có tiêu chuẩn rõ ràng. Các đặc điểm về hình thái và chất lượng của GOs vẫn chưa được làm rõ, đường kính của GOs xấp xỉ gấp đôi so với noãn bình thường và có 2 hạt nhân ở giai đoạn prophase I.
Đối với các đặc điểm về di truyền, GOs mang bộ nhiễm sắc thể (NST) lưỡng bội (2n). Ngoài ra, GOs còn được tìm thấy ở dạng lệch bội NST và các dạng đột biến cấu trúc NST như mất đoạn và lặp đoạn. Chính vì thế GOs được xem như mang các bất thường về NST và việc sử dụng GOs trong điều trị lâm sàng có thể gây thất bại làm tổ hoặc sẩy thai. Hiện tại có rất ít nghiên cứu phân tích về GOs, do đó nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định tiêu chuẩn chẩn đoán kích thước của GOs, đồng thời xác định tính chính xác của tiêu chuẩn bằng cách đánh giá số lượng NST ở các GOs này bằng việc đo kích thước và số lượng thoi vô sắc kèm theo số lượng tâm động.
Phương pháp:
Đây là một nghiên cứu hồi cứu trên 254.337 noãn từ 26.940 chu kì điều trị của những phụ nữ từ 20 – 49 tuổi đã trải qua quá trình kích thích buồng trứng trong giai đoạn từ tháng 1/2014 đến tháng 12/2020.
Nghiên cứu tiến hành đánh giá ngẫu nhiên 50 noãn được cho là GOs và 50 noãn MII có kích thước bình thường để đo đường kính noãn và đường kính tế bào chất (không bao gồm màng ZP). Các noãn được nhuộm miễn dịch huỳnh quang, phân nhóm GOs thành 2 nhóm nhỏ để đánh giá là GO1 với 1 thoi vô sắc và GO2 với 2 thoi vô sắc, 47 GOs được lấy ngẫu nhiên để đánh giá các bất thường về thoi vô sắc. Trong số 47 GOs này, 16 noãn ở nhóm GOs và MII được đo đường kính của thoi vô sắc. 16 noãn ở mỗi nhóm được lấy mẫu ngẫu nhiên và nhuộm miễn dịch để xác định số lượng tâm động.
Kết quả:
- Có sự khác biệt đáng kể về kích thước của noãn MII bình thường và GOs, trung vị đường kính noãn bao gồm màng ZP và đường kính tế bào chất lần lượt là 143,95 và 208,25 μm ở nhóm GOs. Ở nhóm noãn bình thường MII lần lượt là 112,25 và 143,4 μm (P < 0,05). Sau khi vẽ biểu đồ các đường kính tế bào chất đo được này, khoảng đường kính là 103,0 – 119,0 μm ở nhóm MII và 132,3 – 175,9 μm ở nhóm GOs, không tìm thấy noãn nào trong khoảng 120 – 130 μm. Do đó, nghiên cứu đưa ra tiêu chuẩn noãn có đường kính tế bào chất ≥ 130 μm là GOs.
- Trong số 254.337 noãn thu được từ 26.940 chu kỳ được kiểm tra trong nghiên cứu này có 561 noãn (0,22%) có đường kính tế bào chất ≥ 130 μm.
- Đường kính mặt phẳng xích đạo và khoảng cách 2 cực thoi vô sắc trong nhóm GO1 dài hơn đáng kể so với nhóm GO2 và MII lần lượt là 18,0 ± 3,3; 11,7 ± 2,2; 12,3 ± 1,3 μm (P < 0,05) và 19,1 ± 2,2; 14,5 ± 3,2; 13,2 ± 2,0 μm (P < 0,05).
- Số tâm động trung bình là 86 trong nhóm GO1 với 1 thoi vô sắc và 42 trong nhóm GO2 với 2 thoi vô sắc.
Kết luận:
Mặc dù nghiên cứu vẫn chưa thể kết luận về kết quả lâm sàng của GOs khi chỉ dựa trên một đặc điểm hình thái duy nhất, tuy nhiên nghiên cứu đã xác định được noãn có đường kính tế bào chất từ 130 μm trở lên được xem là GOs. Ngoài ra, khi GOs có 2 thoi vô sắc có thể kết luận rằng noãn mang bất thường NST và cũng có trường hợp noãn mang bộ NST lưỡng bội ngay cả trong trường hợp GOs chỉ có 1 thoi vô sắc. Do đó, GOs được cho là bất thường và cần được xem xét cẩn thận trước khi sử dụng trong điều trị lâm sàng.
Nguồn: Kitasaka, H., et al., Oocyte cytoplasmic diameter of ≥ 130 μm can be used to determine human giant oocytes. 2022. 3(1): p. 10-17.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Thông tin chi tiết về đa dạng bất thường hình thái đuôi tinh trùng trong vô sinh nam: Có gì mới? - Ngày đăng: 21-04-2022
CircSTK40 – một RNA dạng vòng gây ra thất bại làm tổ liên tiếp thông qua trục HSP90/AKT/FOXO1 - Ngày đăng: 16-04-2022
Biểu hiện nội mạc tử cung của các gene liên kết tế bào ở bệnh nhân bị thất bại làm tổ nhiều lần trong chu kỳ IVF - Ngày đăng: 10-04-2022
Cơ chế phân tử của hormone sinh dục trên sự tăng sinh và phát triển của tế bào Sertoli - Ngày đăng: 10-04-2022
Đưa thêm nhiều công nghệ vào labo IVF để cải thiện kết quả hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 10-04-2022
Đo lường mức độ stress oxy hóa trong quá trình đông lạnh và rã đông tinh trùng người: Vai trò bảo vệ của Myo-Inositol đối với tinh trùng trong điều trị thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 10-04-2022
Hiệu quả của moxibustion - thảo dược đắp trên rốn đối với kết quả mang thai ở bệnh nhân IVF bị thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 10-04-2022
Định nghĩa mới về thất bại làm tổ nhiều lần dựa trên tỷ lệ phôi nang lệch bội ở các nhóm tuổi mẹ khác nhau - Ngày đăng: 10-04-2022
Ảnh hưởng của xét nghiệm sàng lọc di truyền tiền làm tổ PGT-A đến kết quả lâm sàng của nhóm bệnh nhân nguy cơ cao - Ngày đăng: 10-04-2022
Mối tương quan giữa các thông số phôi học và lâm sàng với tỉ lệ sẩy thai sau chuyển đơn phôi nguyên bội - Ngày đăng: 06-04-2022
Tác động của tuổi tác và hình thái phôi lên tỉ lệ làm tổ sau khi chuyển phôi nang nguyên bội - Ngày đăng: 06-04-2022
Ảnh hưởng của việc trữ rã và sinh thiết phôi nhiều lần lên kết quả lâm sàng và bé sơ sinh - Ngày đăng: 06-04-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK