Tin tức
on Wednesday 04-05-2022 7:57am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Nhật Ánh Dương – IVFMD Tân Bình
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) đã giúp rất nhiều bệnh nhân hiếm muộn được mang thai đứa con của chính mình. Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc của ART cũng không thể nào ngăn cản và phòng tránh được hoàn toàn các trường hợp sẩy thai và lại một lần nữa gây ra những tổn thương tâm lý sâu sắc cho bệnh nhân đang điều trị hiếm muộn.
Cho đến nay, sẩy thai đã trở thành một trong những biến chứng phổ biến trong các thai kỳ điều trị ART. Một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sẩy thai ở những bệnh nhân ART được chuyển phôi tươi là 14,9%. Trước đây, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện để xác định các yếu tố dự báo nguy cơ sẩy thai, tuy nhiên vẫn chưa có sự đồng thuận, có thể là do cơ chế bệnh sinh cơ bản và các yếu tố liên quan đến sẩy thai vẫn chưa được làm rõ một cách đầy đủ. Do đó, cần tìm hiểu và xác định tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ liên quan đến sẩy thai ở các cặp vợ chồng hiếm muộn, đặc biệt là các cặp vợ chồng hiếm muộn đang điều trị ART. Vì vậy, một nghiên cứu lớn và toàn diện về nguy cơ sẩy thai ở bệnh nhân ART là cần thiết. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ phổ biến và các yếu tố nguy cơ liên quan đến sẩy thai ở các cặp vợ chồng đang điều trị ART để cung cấp tài liệu tham khảo và trợ giúp cho việc dự đoán xác suất sẩy thai ở những bệnh nhân này trong thực hành lâm sàng trong tương lai.
Nghiên cứu đã tiến hành phân tích dữ liệu lâm sàng từ 16.097 bệnh nhân mang thai sau khi điều trị ART. Tiêu chí nhận vào nghiên cứu bao gồm những bệnh nhân được điều trị ART bằng cách sử dụng noãn tự thân và phôi được chuyển là phôi tươi, đã có các kết quả xét nghiệm cơ bản và không thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ trước khi chuyển phôi. Các trường hợp tiền sử sẩy thai nhiều lần và u xơ cơ tử cung, các bệnh về rối loạn nội tiết và chuyển hóa, dị tật tử cung nghiêm trọng, bất thường nhiễm sắc thể ở cả hai vợ chồng, đái tháo đường nặng, cường giáp và các bệnh khác, ứ dịch ống dẫn trứng chưa được điều trị, lạc nội mạc tử cung hoặc các bệnh về nội mạc tử cung không được điều trị, dị ứng thuốc và các yếu tố khác,... bị loại khỏi nghiên cứu.
Các đối tượng nghiên cứu được chia thành "nhóm sẩy thai" và "nhóm không sẩy thai" theo kết quả thai kì đã được ghi nhận lại. Sẩy thai gồm những trường hợp thai đã được xác nhận, tiền sử lâm sàng, khám sức khỏe, nội tiết và siêu âm đầu dò âm đạo xác nhận rằng phôi thai ngừng phát triển trước 20 tuần của thai kỳ. Từ việc so sánh các yếu tố ảnh hưởng của bệnh nhân trong nhóm sẩy thai và nhóm không sẩy thai, các yếu tố được lựa chọn để phân tích là tuổi mẹ, tuổi bố, BMI, FSH, LH, Estradiol, Progesterone, AMH, prolactin, số chu kỳ điều trị, số lượng phôi chuyển, phương pháp thụ tinh, tuổi phôi, số lượng thai và phác đồ kích thích buồng trứng, nhóm tác giả đã xác định các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm bệnh nhân. Dựa trên những kết quả này, các phân tích hồi quy logistic đơn yếu tố và đa yếu tố được thực hiện để sàng lọc các yếu tố độc lập có liên quan đến sẩy thai trong ART. Thông qua các thông số này, chúng ta có thể dự đoán xác suất sẩy thai để thực hiện các biện pháp can thiệp dự phòng và nhằm ngăn ngừa sẩy thai và thông báo trước cho bệnh nhân về nguy cơ sẩy thai có thể có.
Kết quả:
Nguồn: Li, F., Niu, A., Feng, X., Yan, Y., & Chen, Y. (2021). The threshold effect of factors associated with spontaneous abortion in human-assisted reproductive technology. Scientific Reports, 11(1), 1-9.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) đã giúp rất nhiều bệnh nhân hiếm muộn được mang thai đứa con của chính mình. Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc của ART cũng không thể nào ngăn cản và phòng tránh được hoàn toàn các trường hợp sẩy thai và lại một lần nữa gây ra những tổn thương tâm lý sâu sắc cho bệnh nhân đang điều trị hiếm muộn.
Cho đến nay, sẩy thai đã trở thành một trong những biến chứng phổ biến trong các thai kỳ điều trị ART. Một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sẩy thai ở những bệnh nhân ART được chuyển phôi tươi là 14,9%. Trước đây, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện để xác định các yếu tố dự báo nguy cơ sẩy thai, tuy nhiên vẫn chưa có sự đồng thuận, có thể là do cơ chế bệnh sinh cơ bản và các yếu tố liên quan đến sẩy thai vẫn chưa được làm rõ một cách đầy đủ. Do đó, cần tìm hiểu và xác định tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ liên quan đến sẩy thai ở các cặp vợ chồng hiếm muộn, đặc biệt là các cặp vợ chồng hiếm muộn đang điều trị ART. Vì vậy, một nghiên cứu lớn và toàn diện về nguy cơ sẩy thai ở bệnh nhân ART là cần thiết. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ phổ biến và các yếu tố nguy cơ liên quan đến sẩy thai ở các cặp vợ chồng đang điều trị ART để cung cấp tài liệu tham khảo và trợ giúp cho việc dự đoán xác suất sẩy thai ở những bệnh nhân này trong thực hành lâm sàng trong tương lai.
Nghiên cứu đã tiến hành phân tích dữ liệu lâm sàng từ 16.097 bệnh nhân mang thai sau khi điều trị ART. Tiêu chí nhận vào nghiên cứu bao gồm những bệnh nhân được điều trị ART bằng cách sử dụng noãn tự thân và phôi được chuyển là phôi tươi, đã có các kết quả xét nghiệm cơ bản và không thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ trước khi chuyển phôi. Các trường hợp tiền sử sẩy thai nhiều lần và u xơ cơ tử cung, các bệnh về rối loạn nội tiết và chuyển hóa, dị tật tử cung nghiêm trọng, bất thường nhiễm sắc thể ở cả hai vợ chồng, đái tháo đường nặng, cường giáp và các bệnh khác, ứ dịch ống dẫn trứng chưa được điều trị, lạc nội mạc tử cung hoặc các bệnh về nội mạc tử cung không được điều trị, dị ứng thuốc và các yếu tố khác,... bị loại khỏi nghiên cứu.
Các đối tượng nghiên cứu được chia thành "nhóm sẩy thai" và "nhóm không sẩy thai" theo kết quả thai kì đã được ghi nhận lại. Sẩy thai gồm những trường hợp thai đã được xác nhận, tiền sử lâm sàng, khám sức khỏe, nội tiết và siêu âm đầu dò âm đạo xác nhận rằng phôi thai ngừng phát triển trước 20 tuần của thai kỳ. Từ việc so sánh các yếu tố ảnh hưởng của bệnh nhân trong nhóm sẩy thai và nhóm không sẩy thai, các yếu tố được lựa chọn để phân tích là tuổi mẹ, tuổi bố, BMI, FSH, LH, Estradiol, Progesterone, AMH, prolactin, số chu kỳ điều trị, số lượng phôi chuyển, phương pháp thụ tinh, tuổi phôi, số lượng thai và phác đồ kích thích buồng trứng, nhóm tác giả đã xác định các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm bệnh nhân. Dựa trên những kết quả này, các phân tích hồi quy logistic đơn yếu tố và đa yếu tố được thực hiện để sàng lọc các yếu tố độc lập có liên quan đến sẩy thai trong ART. Thông qua các thông số này, chúng ta có thể dự đoán xác suất sẩy thai để thực hiện các biện pháp can thiệp dự phòng và nhằm ngăn ngừa sẩy thai và thông báo trước cho bệnh nhân về nguy cơ sẩy thai có thể có.
Kết quả:
- Nghiên cứu đã thu thập dữ liệu từ 16.097 bệnh nhân thụ thai thành công bằng ART, trong đó có 2378 người (14,77%) bị sẩy thai và 13.719 người (85,23%) không bị sẩy thai. Có sự khác biệt về tuổi mẹ ở nhóm sẩy thai cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không sẩy thai (P <0,001). Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng nhận thấy rằng tuổi bố ở nhóm sẩy thai cao hơn đáng kể so với nhóm không sẩy thai (P <0,001). BMI và nồng độ FSH ở nhóm sẩy thai cũng cao hơn đáng kể so với nhóm không sẩy thai. Tuy nhiên, nồng độ Progesterone, AMH và prolactin trong nhóm sẩy thai cũng thấp hơn đáng kể so với nhóm không sẩy thai. Ngoài ra, cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa số chu kỳ điều trị, số phôi chuyển và số thai giữa hai nhóm.
- Phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy tuổi mẹ, tuổi bố, nồng độ FSH và AMH là những yếu tố dự báo độc lập về nguy cơ sẩy thai tự nhiên. Trong đó, tuổi mẹ, tuổi bố và nồng độ FSH có tương quan thuận và AMH có mối tương quan nghịch với nguy cơ sẩy thai.
- Qua phân tích, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng theo độ tuổi của nữ là 32 tuổi. Khi trên 32 tuổi, nguy cơ sẩy thai tăng mạnh. Mối tương quan giữa tuổi nam và xác suất sẩy thai có xu hướng ổn định hơn; tuổi càng lớn, khả năng sẩy thai càng tăng.
- Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy FSH và AMH là những yếu tố quan trọng khác dẫn đến sẩy thai tự nhiên ở bệnh nhân điều trị ART. Ngưỡng cắt của FSH là 6,1 IU/L, khi FSH> 6,1 IU/L tỷ lệ sẩy thai tăng đáng kể. Tương tự với giá trị AMH, ngưỡng cắt của AMH là 3,1 ng/mL và 11,6 ng/mL, khi AMH<3,1 ng/mL tỷ lệ sẩy thai tăng. AMH có tương quan nghịch với tỷ lệ sẩy thai từ đó cho thấy giá trị AMH càng lớn thì tỷ lệ sẩy thai tự nhiên càng thấp. Tuy nhiên, khi AMH trong khoảng 3,1-11,6 ng/mL, xác suất sẩy thai tự nhiên không biến động theo nồng độ AMH.
Nguồn: Li, F., Niu, A., Feng, X., Yan, Y., & Chen, Y. (2021). The threshold effect of factors associated with spontaneous abortion in human-assisted reproductive technology. Scientific Reports, 11(1), 1-9.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của các phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung đến nguy cơ thai ngoài tử cung trong các chu kỳ chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 04-05-2022
Kinh nghiệm mười lăm năm tại trung tâm có ngân hàng tinh trùng cho bệnh nhân ung thư: Việc sử dụng và kết quả điều trị của những bệnh nhân còn sống - Ngày đăng: 02-05-2022
Mang thai thành công, sinh con và sự phát triển của trẻ em sau khi đông lạnh noãn ở bệnh nhân nữ ung thư trong suốt 25 năm bảo tồn khả năng sinh sản - Ngày đăng: 24-04-2022
Các yếu tố liên quan đến thảo luận về bảo tồn khả năng sinh sản trên 1.357 bệnh nhân ung thư vú điều trị bằng hoá trị - Ngày đăng: 24-04-2022
Phân tích sự biểu hiện các gen và miRNAs liên quan đến thật bại làm tổ liên tiếp – dấu ấn sinh học không xâm lấn mới dự đoán khả năng làm tổ của phôi - Ngày đăng: 21-04-2022
Đường kính tế bào chất của noãn ≥ 130 µm có thể được dùng để xác định noãn bào kích thước lớn (Giant oocytes – GOs) - Ngày đăng: 21-04-2022
Thông tin chi tiết về đa dạng bất thường hình thái đuôi tinh trùng trong vô sinh nam: Có gì mới? - Ngày đăng: 21-04-2022
CircSTK40 – một RNA dạng vòng gây ra thất bại làm tổ liên tiếp thông qua trục HSP90/AKT/FOXO1 - Ngày đăng: 16-04-2022
Biểu hiện nội mạc tử cung của các gene liên kết tế bào ở bệnh nhân bị thất bại làm tổ nhiều lần trong chu kỳ IVF - Ngày đăng: 10-04-2022
Cơ chế phân tử của hormone sinh dục trên sự tăng sinh và phát triển của tế bào Sertoli - Ngày đăng: 10-04-2022
Đưa thêm nhiều công nghệ vào labo IVF để cải thiện kết quả hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 10-04-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK