Tin tức
on Sunday 24-04-2022 8:50pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Vân Anh – IVF Vạn Hạnh
Bảo tồn khả năng sinh sản của bệnh nhân ung thư đã trở thành một phần không thể thiếu trong y học sinh sản và ung thư. Sau khi điều trị ung thư thường dẫn đến vô kinh và vô sinh gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống người bệnh. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh hóa trị, đặc biệt là các tác nhân alkyl hóa gây độc cho tuyến sinh dục và có thể gây suy buồng trứng sớm (Premature ovarian insufficiency – POI). Do đó, Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ (American Society of Clinical Oncology – ASCO) và Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (American Society for Reproductive Medicine – ASRM) khuyến nghị bảo tồn khả năng sinh sản cho bệnh nhân ung thư trước khi họ điều trị.
Các nhà nghiên cứu của Đại học Bologna đã bắt đầu nghiên cứu về bảo quản lạnh noãn người từ những năm 1990, cũng với những ứng dụng lâm sàng cho bệnh nhân ung thư. Họ đã theo dõi ca sinh thành công từ noãn đông lạnh tự thân thu được trước khi cắt bỏ buồng trứng của một phụ nữ có u buồng trứng giáp biên ác tính. Cho đến nay bảo quản lạnh noãn đã được ứng dụng phổ biến trong lâm sàng và là một trong những lựa chọn tốt nhất để bảo tồn khả năng sinh sản ở bệnh nhân ung thư. Tính an toàn của đông lạnh noãn đã được báo cáo và có hơn 3000 trẻ sinh sống. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, trẻ em sinh ra từ noãn đông lạnh không làm tăng nguy cơ dị tật. Bên cạnh đó, kết quả thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – IVF) tương tự về tỷ lệ thụ tinh, mang thai và sinh sống của noãn bảo quản lạnh và noãn tươi.
Nghiên cứu này báo cáo một số lượng lớn bệnh nhân ung thư trải qua phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản bằng đông lạnh noãn và theo dõi 15 đứa trẻ được sinh ra cho đến nay. Nghiên cứu so sánh kết quả điều trị IVF của bệnh nhân ung thư và không ung thư sử dụng noãn đông lạnh nhằm mục đích chứng minh đông lạnh noãn là một lựa chọn khả thi và hiệu quả để bảo tồn khả năng sinh sản.
Phương pháp: Tổng cộng có 508 bệnh nhân bảo quản lạnh noãn tại một Đơn vị Vô sinh và IVF tại Ý từ năm 1996 đến năm 2021. Sau khi được chẩn đoán và trước khi hóa trị bệnh nhân được hướng dẫn bảo tồn khả năng sinh sản. Trong đó, có 108 bệnh nhân ung thư vú, 83 bệnh nhân mắc bệnh phụ khoa, 135 người bị ung thư máu và 182 người mắc các ung thư khác. Bệnh nhân được theo dõi từ 1 đến 25 năm các thông tin như chu kỳ kinh nguyệt, dự trữ buồng trứng và số lượng nang noãn. Nhóm đối chứng không mắc bệnh ung thư gồm 1042 bệnh nhân trải qua IVF và sử dụng noãn đông lạnh. Trong đó, có 69 chu kỳ thực hiện bằng kỹ thuật đông lạnh chậm và 439 chu kỳ bằng thủy tinh hóa.
Kết quả: Tổng cộng có 432/508 (85%) bệnh nhân hoàn thành việc theo dõi, có 44/156 (28%) quay lại sử dụng noãn đông lạnh. Nhóm bệnh nhân ung thư có số noãn chọc hút trung bình 8,8 ± 6,9 và số noãn bảo quản lạnh trung bình 6,1 ± 4,2. Noãn đông lạnh của 44 bệnh nhân sau khi điều trị ung thư được sử dụng. Tổng 194 noãn đông lạnh được rã đông/làm ấm với 101 noãn sống sau rã (80,9%). Khi so sánh giữa hai nhóm ung thư và không ung thư cho thấy không có sự khác biệt giữa tỷ lệ mang thai, tỷ lệ sinh. Tất cả trẻ em đều sinh trưởng và phát triển bình thường. Một trường hợp dị tật nhỏ được phát hiện trong nhóm ung thư và không có trường hợp dị tật nào được phát hiện trong nhóm không ung thư.
Kết luận: Bảo tồn khả năng sinh sản nữ bằng phương pháp đông lạnh noãn là một lựa chọn khả thi cho những bệnh nhân ung thư. Nhất là với bệnh nhân có nguy cơ suy buồng trứng, mang lại cơ hội có thai, sinh con và cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Tính an toàn của đông lạnh noãn hiện đang được chứng minh và tích lũy giúp cải thiện việc tư vấn cho những bệnh nhân ung thư mong muốn mang thai sau khi điều trị.
Nguồn: Porcu, E., Cipriani, L., Dirodi, M., và cộng sự (2022). Successful Pregnancies, Births, and Children Development Following Oocyte Cryostorage in Female Cancer Patients During 25 Years of Fertility Preservation. Cancers, 14(6), 1429.
Bảo tồn khả năng sinh sản của bệnh nhân ung thư đã trở thành một phần không thể thiếu trong y học sinh sản và ung thư. Sau khi điều trị ung thư thường dẫn đến vô kinh và vô sinh gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống người bệnh. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh hóa trị, đặc biệt là các tác nhân alkyl hóa gây độc cho tuyến sinh dục và có thể gây suy buồng trứng sớm (Premature ovarian insufficiency – POI). Do đó, Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ (American Society of Clinical Oncology – ASCO) và Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (American Society for Reproductive Medicine – ASRM) khuyến nghị bảo tồn khả năng sinh sản cho bệnh nhân ung thư trước khi họ điều trị.
Các nhà nghiên cứu của Đại học Bologna đã bắt đầu nghiên cứu về bảo quản lạnh noãn người từ những năm 1990, cũng với những ứng dụng lâm sàng cho bệnh nhân ung thư. Họ đã theo dõi ca sinh thành công từ noãn đông lạnh tự thân thu được trước khi cắt bỏ buồng trứng của một phụ nữ có u buồng trứng giáp biên ác tính. Cho đến nay bảo quản lạnh noãn đã được ứng dụng phổ biến trong lâm sàng và là một trong những lựa chọn tốt nhất để bảo tồn khả năng sinh sản ở bệnh nhân ung thư. Tính an toàn của đông lạnh noãn đã được báo cáo và có hơn 3000 trẻ sinh sống. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, trẻ em sinh ra từ noãn đông lạnh không làm tăng nguy cơ dị tật. Bên cạnh đó, kết quả thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – IVF) tương tự về tỷ lệ thụ tinh, mang thai và sinh sống của noãn bảo quản lạnh và noãn tươi.
Nghiên cứu này báo cáo một số lượng lớn bệnh nhân ung thư trải qua phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản bằng đông lạnh noãn và theo dõi 15 đứa trẻ được sinh ra cho đến nay. Nghiên cứu so sánh kết quả điều trị IVF của bệnh nhân ung thư và không ung thư sử dụng noãn đông lạnh nhằm mục đích chứng minh đông lạnh noãn là một lựa chọn khả thi và hiệu quả để bảo tồn khả năng sinh sản.
Phương pháp: Tổng cộng có 508 bệnh nhân bảo quản lạnh noãn tại một Đơn vị Vô sinh và IVF tại Ý từ năm 1996 đến năm 2021. Sau khi được chẩn đoán và trước khi hóa trị bệnh nhân được hướng dẫn bảo tồn khả năng sinh sản. Trong đó, có 108 bệnh nhân ung thư vú, 83 bệnh nhân mắc bệnh phụ khoa, 135 người bị ung thư máu và 182 người mắc các ung thư khác. Bệnh nhân được theo dõi từ 1 đến 25 năm các thông tin như chu kỳ kinh nguyệt, dự trữ buồng trứng và số lượng nang noãn. Nhóm đối chứng không mắc bệnh ung thư gồm 1042 bệnh nhân trải qua IVF và sử dụng noãn đông lạnh. Trong đó, có 69 chu kỳ thực hiện bằng kỹ thuật đông lạnh chậm và 439 chu kỳ bằng thủy tinh hóa.
Kết quả: Tổng cộng có 432/508 (85%) bệnh nhân hoàn thành việc theo dõi, có 44/156 (28%) quay lại sử dụng noãn đông lạnh. Nhóm bệnh nhân ung thư có số noãn chọc hút trung bình 8,8 ± 6,9 và số noãn bảo quản lạnh trung bình 6,1 ± 4,2. Noãn đông lạnh của 44 bệnh nhân sau khi điều trị ung thư được sử dụng. Tổng 194 noãn đông lạnh được rã đông/làm ấm với 101 noãn sống sau rã (80,9%). Khi so sánh giữa hai nhóm ung thư và không ung thư cho thấy không có sự khác biệt giữa tỷ lệ mang thai, tỷ lệ sinh. Tất cả trẻ em đều sinh trưởng và phát triển bình thường. Một trường hợp dị tật nhỏ được phát hiện trong nhóm ung thư và không có trường hợp dị tật nào được phát hiện trong nhóm không ung thư.
Kết luận: Bảo tồn khả năng sinh sản nữ bằng phương pháp đông lạnh noãn là một lựa chọn khả thi cho những bệnh nhân ung thư. Nhất là với bệnh nhân có nguy cơ suy buồng trứng, mang lại cơ hội có thai, sinh con và cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Tính an toàn của đông lạnh noãn hiện đang được chứng minh và tích lũy giúp cải thiện việc tư vấn cho những bệnh nhân ung thư mong muốn mang thai sau khi điều trị.
Nguồn: Porcu, E., Cipriani, L., Dirodi, M., và cộng sự (2022). Successful Pregnancies, Births, and Children Development Following Oocyte Cryostorage in Female Cancer Patients During 25 Years of Fertility Preservation. Cancers, 14(6), 1429.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Các yếu tố liên quan đến thảo luận về bảo tồn khả năng sinh sản trên 1.357 bệnh nhân ung thư vú điều trị bằng hoá trị - Ngày đăng: 24-04-2022
Phân tích sự biểu hiện các gen và miRNAs liên quan đến thật bại làm tổ liên tiếp – dấu ấn sinh học không xâm lấn mới dự đoán khả năng làm tổ của phôi - Ngày đăng: 21-04-2022
Đường kính tế bào chất của noãn ≥ 130 µm có thể được dùng để xác định noãn bào kích thước lớn (Giant oocytes – GOs) - Ngày đăng: 21-04-2022
Thông tin chi tiết về đa dạng bất thường hình thái đuôi tinh trùng trong vô sinh nam: Có gì mới? - Ngày đăng: 21-04-2022
CircSTK40 – một RNA dạng vòng gây ra thất bại làm tổ liên tiếp thông qua trục HSP90/AKT/FOXO1 - Ngày đăng: 16-04-2022
Biểu hiện nội mạc tử cung của các gene liên kết tế bào ở bệnh nhân bị thất bại làm tổ nhiều lần trong chu kỳ IVF - Ngày đăng: 10-04-2022
Cơ chế phân tử của hormone sinh dục trên sự tăng sinh và phát triển của tế bào Sertoli - Ngày đăng: 10-04-2022
Đưa thêm nhiều công nghệ vào labo IVF để cải thiện kết quả hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 10-04-2022
Đo lường mức độ stress oxy hóa trong quá trình đông lạnh và rã đông tinh trùng người: Vai trò bảo vệ của Myo-Inositol đối với tinh trùng trong điều trị thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 10-04-2022
Hiệu quả của moxibustion - thảo dược đắp trên rốn đối với kết quả mang thai ở bệnh nhân IVF bị thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 10-04-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK