Tin tức
on Tuesday 05-04-2022 8:06am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Như Quỳnh – IVF Vạn Hạnh
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI) được chỉ định điều trị cho những trường hợp nam giới bất thường tinh trùng nặng. Trong kĩ thuật ICSI, một tinh trùng di động có hình dạng bình thường được lựa chọn để bất động trước khi tiêm vào bào tương noãn. Polyvinylpyrrolidone (PVP) là chất được sử dụng phổ biến để hỗ trợ bất động tinh trùng. PVP là một dạng polyme có khả năng hoà tan, được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực dược phẩm. Theo một số báo cáo, một lượng PVP vẫn tồn tại trong thời gian dài sau khi ICSI và lysosome của noãn không có khả năng phân huỷ loại polyme này. Các nghiên cứu thực hiện trên mô hình động vật cho thấy việc tiếp xúc giữa tinh trùng với môi trường có chứa PVP làm thay đổi hoạt động của ti thể, cấu trúc của nhân và màng tinh trùng, qua đó giảm tỉ lệ thụ tinh. Trong công bố gần đây, tác giả Ding và cộng sự (2020) đã chứng minh ảnh hưởng của PVP ở các nồng độ khác nhau đến sự phát triển của phôi. Nhóm tác giả kết luận rằng khi PVP được sử dụng ở nồng độ thấp thì chất lượng phôi sẽ cao hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Ding không tập trung vào chất lượng tinh trùng khi tiếp xúc với PVP.
Mặc dù được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, nhưng những ảnh hưởng của PVP đến cấu trúc và chức năng của tinh trùng vẫn chưa thực sự được chứng minh rõ ràng. Vì vậy, việc xác định khoảng thời gian tối ưu để tinh trùng tiếp xúc với PVP là điều cần thiết. Nghiên cứu này của tác giả Sabour và cộng sự (2022) nhằm đánh giá các thông số liên quan đến tinh trùng, độ phân mảnh DNA, cấu trúc chromatin, phản ứng acrosome, màng ti thể và vi cấu trúc khi cấy tinh trùng trong môi trường có chứa PVP ở 3 mốc thời gian là 0 phút (đối chứng), 15 phút, 30 phút và 60 phút.
Các kết quả của nghiên cứu được ghi nhận như sau:
+ Ở thời điểm 15 phút: ghi nhận được những thay đổi hình thái nhẹ ở màng sinh chất
+ Ở thời điểm 30 phút: có những thay đổi rõ rệt ở màng sinh chất
Như vậy, nghiên cứu đã ghi nhận được những ảnh hưởng không tốt của PVP tăng một cách rõ rệt khi cấy tinh trùng càng lâu trong môi trường có chứa loại polyme này. Do vậy, trong ICSI, thời gian tối đa mà tinh trùng có thể tiếp xúc với PVP không nên kéo dài quá 15 phút.
Lược dịch từ: Sabour, M., Agha‐Rahimi, A., Dehghani Ashkezari, M., Seifati, S.M., Anbari, F. and Nabi, A., 2022. Prolonged exposure of human spermatozoa in polyvinylpyrrolidone has detrimental effects on sperm biological characteristics. Andrologia, p.e14402.
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI) được chỉ định điều trị cho những trường hợp nam giới bất thường tinh trùng nặng. Trong kĩ thuật ICSI, một tinh trùng di động có hình dạng bình thường được lựa chọn để bất động trước khi tiêm vào bào tương noãn. Polyvinylpyrrolidone (PVP) là chất được sử dụng phổ biến để hỗ trợ bất động tinh trùng. PVP là một dạng polyme có khả năng hoà tan, được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực dược phẩm. Theo một số báo cáo, một lượng PVP vẫn tồn tại trong thời gian dài sau khi ICSI và lysosome của noãn không có khả năng phân huỷ loại polyme này. Các nghiên cứu thực hiện trên mô hình động vật cho thấy việc tiếp xúc giữa tinh trùng với môi trường có chứa PVP làm thay đổi hoạt động của ti thể, cấu trúc của nhân và màng tinh trùng, qua đó giảm tỉ lệ thụ tinh. Trong công bố gần đây, tác giả Ding và cộng sự (2020) đã chứng minh ảnh hưởng của PVP ở các nồng độ khác nhau đến sự phát triển của phôi. Nhóm tác giả kết luận rằng khi PVP được sử dụng ở nồng độ thấp thì chất lượng phôi sẽ cao hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Ding không tập trung vào chất lượng tinh trùng khi tiếp xúc với PVP.
Mặc dù được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, nhưng những ảnh hưởng của PVP đến cấu trúc và chức năng của tinh trùng vẫn chưa thực sự được chứng minh rõ ràng. Vì vậy, việc xác định khoảng thời gian tối ưu để tinh trùng tiếp xúc với PVP là điều cần thiết. Nghiên cứu này của tác giả Sabour và cộng sự (2022) nhằm đánh giá các thông số liên quan đến tinh trùng, độ phân mảnh DNA, cấu trúc chromatin, phản ứng acrosome, màng ti thể và vi cấu trúc khi cấy tinh trùng trong môi trường có chứa PVP ở 3 mốc thời gian là 0 phút (đối chứng), 15 phút, 30 phút và 60 phút.
Các kết quả của nghiên cứu được ghi nhận như sau:
- Tỉ lệ sống của tinh trùng ở các mốc thời điểm 0 phút, 15 phút, 30 phút và 60 phút lần lượt là 61,4% ± 16,26, 50,6% ± 14,75%, 42,84% ± 13,38 và 35,88% ± 13,56 (p < 0,001).
- Tỉ lệ phân mảnh DNA tinh trùng ở các mốc thời điểm 0 phút, 15 phút, 30 phút và 60 phút lần lượt là 21,92 ± 7,32, 24,28 ± 7,4, 27 ± 7,3 và 31,64 ± 6,99 (p < 0,001).
- Khi cấy tinh trùng trong môi trường có chứa PVP càng lâu, chức năng hoạt động của màng ti thể tinh trùng giảm, ngược lại, tỉ lệ tinh trùng có phản ứng acrosome lại tăng (p < 0,001).
- Về cấu trúc tinh trùng:
+ Ở thời điểm 15 phút: ghi nhận được những thay đổi hình thái nhẹ ở màng sinh chất
+ Ở thời điểm 30 phút: có những thay đổi rõ rệt ở màng sinh chất
Như vậy, nghiên cứu đã ghi nhận được những ảnh hưởng không tốt của PVP tăng một cách rõ rệt khi cấy tinh trùng càng lâu trong môi trường có chứa loại polyme này. Do vậy, trong ICSI, thời gian tối đa mà tinh trùng có thể tiếp xúc với PVP không nên kéo dài quá 15 phút.
Lược dịch từ: Sabour, M., Agha‐Rahimi, A., Dehghani Ashkezari, M., Seifati, S.M., Anbari, F. and Nabi, A., 2022. Prolonged exposure of human spermatozoa in polyvinylpyrrolidone has detrimental effects on sperm biological characteristics. Andrologia, p.e14402.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Nuôi trưởng thành noãn non trong ống nghiệm (IVM) và cấy ghép mô buồng trứng được bảo quản lạnh: hiểu biết về tuổi thọ của buồng trứng - Ngày đăng: 01-04-2022
Tác động của tuổi mẹ lên trọng lượng trẻ sơ sinh trong chu kỳ chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 01-04-2022
Ảnh hưởng của việc bổ sung vitamin D đến kết quả thụ tinh trong ống nghiệm : Một nghiên cứu phân tích tổng hợp tuần tự 5 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 01-04-2022
Mối tương quan của việc tiêm chủng vaccine BNT162b2 ngừa COVID-19 trong thai kỳ đối với kết quả sơ sinh - Ngày đăng: 01-04-2022
Sự lão hóa sinh sản ở nữ và tiềm năng điều trị bằng liệu pháp senotherapy - Ngày đăng: 01-04-2022
Vaccine BNT162b2 mRNA ngừa COVID-19 không làm ảnh hưởng đến các thông số tinh dịch đồ - Ngày đăng: 26-03-2022
Mức độ tương đồng giữa các bất thường nhiễm sắc thể giữa các phần khác nhau của phôi và giá trị của việc sinh thiết lại ở phôi mang bất thường dạng lệch bội cánh nhiễm sắc thể - Ngày đăng: 26-03-2022
Mối tương quan giữa chỉ số khối cơ thể mẹ với sự tăng tỷ lệ lệch bội do dòng mẹ ở phôi nang - Ngày đăng: 25-03-2022
Vai trò các chỉ số máu trong dự đoán kết quả bảo tồn sinh sản ở bệnh nhân ung thư vú - Ngày đăng: 24-03-2022
Căng thẳng tâm lý và sự thay đổi đặc điểm kinh nguyệt trong đại dịch COVID-19 - Ngày đăng: 24-03-2022
Điều trị và ngăn ngừa sự xuất hiện viêm âm đạo do vi khuẩn - Ngày đăng: 24-03-2022
Hàm lượng DNA ti thể (mtDNA) có liên quan đến hiện tượng phôi nang phát triển chậm - Ngày đăng: 22-03-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK