Tin tức
on Friday 01-04-2022 6:12pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Trần Thị Thuỳ An
Năm 1994, Gosden và cộng sự đã báo cáo về việc cấy ghép mô buồng trứng bảo quản lạnh thành công ở cừu. Năm 2005, trường hợp cấy ghép thành công đầu tiên ở người được báo cáo. Người phụ nữ mang thai tự nhiên và sinh con khoẻ mạnh.
Việc bảo tồn khả năng sinh sản cho những bệnh nhân ung thư được quan tâm nhiều hơn. Hiện nay, đã có vài trăm trẻ sơ sinh được sinh ra từ cấy ghép mô buồng trứng và chưa có báo cáo về việc lây truyền ung thư.
Báo cáo này, cập nhật các kết quả nghiên cứu của tác giả tại Mỹ và những kiến thức từ thực hiện kỹ thuật IVM. Mục tiêu của báo cáo bao gồm:
Phương pháp nghiên cứu
Trong thời gian 1997 - 2020 (24 năm), quần thể nghiên cứu gồm 119 bệnh nhân nữ, từ 2-35 tuổi, có trữ mô buồng trứng, đông lạnh noãn sau khi trải qua IVM.
Trong số 119 người, 85 người bị ung thư, 8 người suy buồng trứng sớm, 13 người trữ vì lý do xã hội và 13 người mắc các bệnh khác như hội chứng Turner, đa xơ cứng, lạc nội mạc tử cung, thiếu máu bất sản, không có buồng trứng bẩm sinh, u quái buồng trứng.
Sau hậu phẫu, tất cả phụ nữ được theo dõi hormone hàng tháng và ghi nhận chu kỳ kinh nguyệt. Sau 22 năm, 17 bệnh nhân quay lại, cấy ghép lại mô buồng trứng của mình.
Kết quả
Sau 5 tháng kể từ khi cấy ghép, tất cả buồng trứng của bệnh nhân đều thực hiện được chức năng của chúng. Chu kỳ kinh nguyệt xuất hiện trở lại. Nồng độ FSH bình thường. Nồng độ AMH tăng lên nồng độ cao, sau đó giảm xuống mức rất thấp sau 4-8 tháng. Mô buồng trứng hoạt động từ 2 đến 8 năm sau khi cấy ghép.
Trong số 17 người, có 13 người (76%) mang thai khi giao hợp ít nhất 1 lần. Tất cả phụ nữ đều mang thai tự nhiên, không qua các biện pháp hỗ trợ TTTON. Tổng cộng có 22 ca mang thai, trong đó có 3 ca sẩy thai trước 3 tháng (14%).
Cả ba phụ nữ ung thư máu đều còn chức năng buồng trứng. Buồng trứng được đông lạnh ngay sau khi bệnh nhân thuyên giảm sau lần điều trị đầu tiên, trước khi cấy ghép tủy xương, các tế bào ung thư sót lại âm tính. Có 19 em bé sinh sống khoẻ mạnh ra đời. Trong đó, có 6 bé được sinh ra từ 3 người mẹ bị ung thư máu.
Sự trưởng thành từ GV lên noãn MII từ 24-48h sau khi nuôi cấy trong môi trường chứa hCG. Tỷ lệ trưởng thành noãn MII dao động từ 19% đến 56% (trung bình là 35%). Có nhiều loại môi trường và các nồng độ khác nhau được sử dụng để thử nghiệm. Điều ngạc nhiên là, sự thành công IVM không liên quan đến môi trường nuôi cấy hay nồng độ gonadotrophine trong môi trường. Sự thành công IVM liên quan đến sự tồn tại của các cụm cumulus xung quanh từng noãn GV. Noãn GV đã hoàn thành quá trình giảm phân trong in vivo chỉ với 8 gen chủ yếu (core genes). 8 gen chủ yếu này có thể chiêu mộ các tế bào gốc hay IPS (induced pluripotent stem cell) tạo ra noãn MII. Vì vậy, chỉ cần 1-2 ngày tiếp xúc với LH hoặc hCG, các noãn GV hoàn toàn có thể phát triển thành noãn MII trưởng thành.
Kết luận
Bảo quản lạnh mô buồng trứng là phương pháp hiệu quả để bảo tồn sinh sản kể cả ở những bệnh nhân ung thư máu (leukaemia), không cần trì hoãn việc điều trị ung thư.
Bên cạnh đó, có thể thu nhận được nhiều noãn trưởng thành được nuôi cấy trong môi trường đơn giản, thu nhận từ mô buồng trứng và không cần kích thích buồng trứng.
Kích thích buồng trứng chỉ cần thiết khi tách và thu nhận noãn khỏi buồng trứng. Có thể thực hiện bằng cách bóc tách trực tiếp các noãn trưởng thành tại thời điểm đông lạnh mô buồng trứng.
Áp lực mô vỏ buồng trứng và 8 gen cốt lõi (liên quan đến sự tuần hoàn nang noãn nguyên thuỷ) được phát hiện là yếu tố chính trong việc kiểm soát, chiêu mộ và kéo dài tuổi thọ buồng trứng ở người.
Nguồn: Sherman J. Silber, Sierra Goldsmith, Leilani Castleman, Kellie Hurlbut, Yuting Fan, Jeffrey Melnick, Katsuhiko Hayashi. In-vitro maturation and transplantation of cryopreserved ovary tissue: understanding ovarian longevity. https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2021.11.015.
Năm 1994, Gosden và cộng sự đã báo cáo về việc cấy ghép mô buồng trứng bảo quản lạnh thành công ở cừu. Năm 2005, trường hợp cấy ghép thành công đầu tiên ở người được báo cáo. Người phụ nữ mang thai tự nhiên và sinh con khoẻ mạnh.
Việc bảo tồn khả năng sinh sản cho những bệnh nhân ung thư được quan tâm nhiều hơn. Hiện nay, đã có vài trăm trẻ sơ sinh được sinh ra từ cấy ghép mô buồng trứng và chưa có báo cáo về việc lây truyền ung thư.
Báo cáo này, cập nhật các kết quả nghiên cứu của tác giả tại Mỹ và những kiến thức từ thực hiện kỹ thuật IVM. Mục tiêu của báo cáo bao gồm:
- Kết quả của quá trình đông lạnh mô buồng trứng bằng phương pháp thuỷ tinh hoá và đông lạnh chậm.
- Sự ra đời của 6 em bé sơ sinh khoẻ mạnh từ 3 người mẹ mắc ung thư máu.
- Kết hợp kỹ thuật IVM trong trữ mô buồng trứng
- Tỷ lệ thành công từ một trung tâm sử dụng kỹ thuật tương tự
Phương pháp nghiên cứu
Trong thời gian 1997 - 2020 (24 năm), quần thể nghiên cứu gồm 119 bệnh nhân nữ, từ 2-35 tuổi, có trữ mô buồng trứng, đông lạnh noãn sau khi trải qua IVM.
Trong số 119 người, 85 người bị ung thư, 8 người suy buồng trứng sớm, 13 người trữ vì lý do xã hội và 13 người mắc các bệnh khác như hội chứng Turner, đa xơ cứng, lạc nội mạc tử cung, thiếu máu bất sản, không có buồng trứng bẩm sinh, u quái buồng trứng.
Sau hậu phẫu, tất cả phụ nữ được theo dõi hormone hàng tháng và ghi nhận chu kỳ kinh nguyệt. Sau 22 năm, 17 bệnh nhân quay lại, cấy ghép lại mô buồng trứng của mình.
Kết quả
Sau 5 tháng kể từ khi cấy ghép, tất cả buồng trứng của bệnh nhân đều thực hiện được chức năng của chúng. Chu kỳ kinh nguyệt xuất hiện trở lại. Nồng độ FSH bình thường. Nồng độ AMH tăng lên nồng độ cao, sau đó giảm xuống mức rất thấp sau 4-8 tháng. Mô buồng trứng hoạt động từ 2 đến 8 năm sau khi cấy ghép.
Trong số 17 người, có 13 người (76%) mang thai khi giao hợp ít nhất 1 lần. Tất cả phụ nữ đều mang thai tự nhiên, không qua các biện pháp hỗ trợ TTTON. Tổng cộng có 22 ca mang thai, trong đó có 3 ca sẩy thai trước 3 tháng (14%).
Cả ba phụ nữ ung thư máu đều còn chức năng buồng trứng. Buồng trứng được đông lạnh ngay sau khi bệnh nhân thuyên giảm sau lần điều trị đầu tiên, trước khi cấy ghép tủy xương, các tế bào ung thư sót lại âm tính. Có 19 em bé sinh sống khoẻ mạnh ra đời. Trong đó, có 6 bé được sinh ra từ 3 người mẹ bị ung thư máu.
Sự trưởng thành từ GV lên noãn MII từ 24-48h sau khi nuôi cấy trong môi trường chứa hCG. Tỷ lệ trưởng thành noãn MII dao động từ 19% đến 56% (trung bình là 35%). Có nhiều loại môi trường và các nồng độ khác nhau được sử dụng để thử nghiệm. Điều ngạc nhiên là, sự thành công IVM không liên quan đến môi trường nuôi cấy hay nồng độ gonadotrophine trong môi trường. Sự thành công IVM liên quan đến sự tồn tại của các cụm cumulus xung quanh từng noãn GV. Noãn GV đã hoàn thành quá trình giảm phân trong in vivo chỉ với 8 gen chủ yếu (core genes). 8 gen chủ yếu này có thể chiêu mộ các tế bào gốc hay IPS (induced pluripotent stem cell) tạo ra noãn MII. Vì vậy, chỉ cần 1-2 ngày tiếp xúc với LH hoặc hCG, các noãn GV hoàn toàn có thể phát triển thành noãn MII trưởng thành.
Kết luận
Bảo quản lạnh mô buồng trứng là phương pháp hiệu quả để bảo tồn sinh sản kể cả ở những bệnh nhân ung thư máu (leukaemia), không cần trì hoãn việc điều trị ung thư.
Bên cạnh đó, có thể thu nhận được nhiều noãn trưởng thành được nuôi cấy trong môi trường đơn giản, thu nhận từ mô buồng trứng và không cần kích thích buồng trứng.
Kích thích buồng trứng chỉ cần thiết khi tách và thu nhận noãn khỏi buồng trứng. Có thể thực hiện bằng cách bóc tách trực tiếp các noãn trưởng thành tại thời điểm đông lạnh mô buồng trứng.
Áp lực mô vỏ buồng trứng và 8 gen cốt lõi (liên quan đến sự tuần hoàn nang noãn nguyên thuỷ) được phát hiện là yếu tố chính trong việc kiểm soát, chiêu mộ và kéo dài tuổi thọ buồng trứng ở người.
Nguồn: Sherman J. Silber, Sierra Goldsmith, Leilani Castleman, Kellie Hurlbut, Yuting Fan, Jeffrey Melnick, Katsuhiko Hayashi. In-vitro maturation and transplantation of cryopreserved ovary tissue: understanding ovarian longevity. https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2021.11.015.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tác động của tuổi mẹ lên trọng lượng trẻ sơ sinh trong chu kỳ chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 01-04-2022
Ảnh hưởng của việc bổ sung vitamin D đến kết quả thụ tinh trong ống nghiệm : Một nghiên cứu phân tích tổng hợp tuần tự 5 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 01-04-2022
Mối tương quan của việc tiêm chủng vaccine BNT162b2 ngừa COVID-19 trong thai kỳ đối với kết quả sơ sinh - Ngày đăng: 01-04-2022
Sự lão hóa sinh sản ở nữ và tiềm năng điều trị bằng liệu pháp senotherapy - Ngày đăng: 01-04-2022
Vaccine BNT162b2 mRNA ngừa COVID-19 không làm ảnh hưởng đến các thông số tinh dịch đồ - Ngày đăng: 26-03-2022
Mức độ tương đồng giữa các bất thường nhiễm sắc thể giữa các phần khác nhau của phôi và giá trị của việc sinh thiết lại ở phôi mang bất thường dạng lệch bội cánh nhiễm sắc thể - Ngày đăng: 26-03-2022
Mối tương quan giữa chỉ số khối cơ thể mẹ với sự tăng tỷ lệ lệch bội do dòng mẹ ở phôi nang - Ngày đăng: 25-03-2022
Vai trò các chỉ số máu trong dự đoán kết quả bảo tồn sinh sản ở bệnh nhân ung thư vú - Ngày đăng: 24-03-2022
Căng thẳng tâm lý và sự thay đổi đặc điểm kinh nguyệt trong đại dịch COVID-19 - Ngày đăng: 24-03-2022
Điều trị và ngăn ngừa sự xuất hiện viêm âm đạo do vi khuẩn - Ngày đăng: 24-03-2022
Hàm lượng DNA ti thể (mtDNA) có liên quan đến hiện tượng phôi nang phát triển chậm - Ngày đăng: 22-03-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK