Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 22-03-2022 2:24pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Hà Thị Diễm Uyên - IVFMD SIH - Bệnh viện phụ sản Quốc tế Sài Gòn
 
Việc lựa chọn giới tính phôi trước khi chuyển là một thực hành đang gây tranh cãi, được thực hiện nhờ sự phát triển của kỹ thuật xét nghiệm di truyền thể lệch bội phôi tiền làm tổ (PGT-A). Khi PGT-A tăng lên, tỷ lệ phần trăm chu kỳ có thể biết được giới tính của phôi trước khi chuyển cũng tăng lên. Có một số vấn đề có thể phát sinh trong quá trình này: (1) các bệnh nhân (BN) thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) với mục đích duy nhất là xác định giới tính phôi, (2) BN thực hiện IVF được chỉ định PGT-A để sàng lọc NST và muốn biết giới tính phôi, (3) BN thực hiện IVF được chỉ định PGT-A nhưng không muốn biết giới tính phôi, (4) BN thực hiện PGT-M để chọn lọc phôi không bị rối loạn di truyền đơn gen kết hợp PGT-A để giúp xác định các phôi có nhiều khả năng làm tổ hơn và (5) Trường hợp các bệnh có liên kết với NST giới tính X thực hiện PGT-A để xác định giới tính phôi nhằm chọn lựa phôi không bị ảnh hưởng. Một số ít BN thực hiện PGT-A có thể không lường trước rằng họ sẽ phải đối mặt với khả năng phải lựa chọn giới tính của phôi được chuyển - một lựa chọn mà họ không có ý định thực hiện và giờ họ phải cân nhắc xem có nên thực hiện hay không.
 
Trong thập kỷ qua, số chu kỳ IVF chỉ định PGT đã tăng gấp 10 lần, từ <4% năm 2008 lên >40% năm 2018, làm tăng thêm sự phức tạp cho vấn đề lựa chọn giới tính phôi. Bởi vì vấn đề này còn đang gây tranh cãi về mặt đạo đức, các trung tâm IVF được khuyến khích nên xây dựng và đưa ra các chính sách về việc thực hiện. Dữ liệu khảo sát chỉ ra rằng hầu hết các trung tâm IVF ở Hoa Kỳ đang cho BN tiếp cận lựa chọn giới tính không vì lý do y tế. Các nhà chuyên môn và phê bình đã bày tỏ quan ngại về các kỹ thuật không mang lại lợi ích y tế cho con cái và có thể gây hại cho các bên liên quan. Trong báo cáo này, ủy ban đạo đức xem xét các lập luận đạo đức "ủng hộ" và "phản đối" lựa chọn giới tính vì lý do phi y tế. Các lập luận nêu dưới đây được đưa ra để hỗ trợ các trung tâm IVF xem xét hoặc sửa đổi chính sách về việc cung cấp lựa chọn giới tính không vì lý do y tế.
 
LẬP LUẬN ỦNG HỘ CHO PHÉP LỰA CHỌN GIỚI TÍNH KHÔNG VÌ LÝ DO Y TẾ
Các lập luận đạo đức ủng hộ BN lựa chọn giới tính không vì lý do y tế là "quyền tự chủ của BN" và "quyền tự do sinh sản". Cha mẹ có thể có nhiều lý do để muốn chọn giới tính cho con cái. Họ có thể mong muốn có kinh nghiệm nuôi dạy con cái ở cả hai giới. Mong muốn này đặc biệt mạnh mẽ đối với những cặp vợ chồng đã có ³1 đứa con thuộc một giới và không muốn sinh thêm một đứa trẻ cùng giới tính với trước đó. Trong những trường hợp đó, lựa chọn giới tính là một khía cạnh quan trọng của quyết định sinh thêm con. Tương tự, đối với những người chỉ muốn có một đứa con, việc lựa chọn giới tính của đứa trẻ có ý nghĩa rất lớn. Mặc dù cha mẹ có thể có lý do cá nhân để theo đuổi lựa chọn giới tính, việc các trung tâm IVF kiểm soát thái độ của BN có sở thích về giới tính của trẻ có thể được cho là nằm ngoài phạm vi cung cấp dịch vụ và có thể vi phạm "quyền tự quyết và quyền riêng tư của BN". Ngoài ra cha mẹ có thể có nhiều lý do khác nhau để mong muốn nuôi con theo giới tính cụ thể, và những lý do đó không nhất thiết phản ánh định kiến ​​về phân biệt giới tính. Và sở thích này không mâu thuẫn với tình yêu thương vô điều kiện của cha mẹ với con cái.
 
LẬP LUẬN PHẢN ĐỐI LỰA CHỌN GIỚI TÍNH KHÔNG VÌ LÝ DO Y TẾ
Các lập luận chính chống lại việc sử dụng PGT-A ở các cặp vợ chồng hiếm muộn lựa chọn giới tính không vì lí do y tế gồm gây tổn thương cho con, tổn hại cho phụ nữ cũng như nam giới, lạm dụng các nguồn lực y tế cho các mục đích phi y tế, nguy cơ phân biệt đối xử và kéo dài bất công xã hội. Việc ủng hộ lựa chọn giới tính của BN có thể làm tăng khả năng chấp nhận việc sử dụng nó ở các quốc gia nơi có sự ưu tiên rõ ràng đối với một giới tính cụ thể nào đó.
Một ý kiến phản đối ​​nữa là có thể tiềm ẩn rủi ro y tế dài hạn của một số quy trình đối với con sau sinh và do đó, không thể chấp nhận bất kỳ rủi ro nào như vậy vì những lý do phi y tế. Tuy nhiên, cho đến nay các rủi ro lâu dài của PGT-A và IVF đối với con chưa được xác định rõ, và hiện tại không có rủi ro nghiêm trọng nào được báo cáo. Do đó ý kiến này không đủ để kết luận rằng vấn đề này là phi đạo đức, vì về mặt đạo đức, những người hiến tặng noãn được phép thực hiện với những rủi ro tương đương mà không mang lại lợi ích y tế cho chính họ.
 
Một số nhà chuyên môn lo ngại rằng PGT-A cho mục đích lựa chọn giới tính không thể hiện sự tôn trọng thích hợp đối với phôi. Các nhà phê bình cũng cho rằng lựa chọn giới tính cho thấy tình yêu thương vô điều kiện của cha mẹ đối với con cái đã suy giảm, và vốn tình yêu thương này không nên phụ thuộc vào các đặc điểm của con cái theo mong muốn hoặc sở thích của cha mẹ.
 
CÁC QUAN NIỆM VỀ CÔNG LÝ XÃ HỘI
Việc lựa chọn giới tính vì lý do phi y tế cũng có thể được cho là liên quan đến nguyên tắc đạo đức, công lý vì nó có thể dẫn đến sự mất cân bằng giới tính đáng kể trong xã hội, kéo theo những lo ngại về sự ổn định xã hội. Đồng thời việc thực hành này có thể chỉ dành cho những người có đủ khả năng chi trả, dẫn đến bất công xã hội. Mặc dù hiện tại không có bang nào ở Mỹ cấm hành vi lựa chọn giới tính một cách hợp pháp, nhưng lại bị cấm ở Canada và ở một số nước Châu Âu. Israel cho phép trong một số trường hợp hiếm hoi. Việc nhiều trẻ em gái bị ''mất tích'' ở các quốc gia, chẳng hạn như Trung Quốc và Ấn Độ, do hậu quả của việc lạm dụng tình dục hoặc nạo phá thai, định kiến ​​lựa chọn giới tính vẫn còn tồn tại từ lâu. Bối cảnh xã hội có liên quan đến mối quan hệ giữa lựa chọn giới tính và phân biệt giới tính.
 
Trong các cuộc khảo sát được thực hiện vào các năm 1997, 2000, 2003, 2007, 2011 và 2018, cuộc thăm dò ý kiến ​​của Gallup đã hỏi những người được hỏi ở tất cả 50 tiểu bang và Quận Columbia: "Giả sử bạn chỉ có thể có một đứa con. Bạn thích đó là con trai hay con gái?" Các câu trả lời cho thấy đa số là muốn sinh con trai. Một cuộc khảo sát của Mỹ được thực hiện vào năm 2004 đã hỏi rằng: ''Nếu được đưa ra lựa chọn, bạn muốn đứa con đầu của mình là trai, gái, không cần quan tâm?" 39% cho biết thích con trai và 19% cho biết thích con gái. Khi được hỏi về giới tính ưa thích của trẻ nếu có kế hoạch sinh >1 con, 50% mong muốn số lượng con trai và con gái bằng nhau, 7% nhiều con trai hơn con gái, 6% con gái nhiều hơn con trai, 5% chỉ muốn con trai, 4% chỉ muốn con gái và 27% không quan tâm.
 
Những dữ liệu khảo sát trên chủ yếu tập trung vào sở thích về giới tính của con đầu lòng và có thể không đặc trưng cho thế giới. Tuy nhiên, xu hướng chỉ sinh một con, tổng số con ít hơn và bắt đầu xây dựng gia đình trễ hơn trong xã hội ngày nay có thể ngày càng ảnh hưởng đến thái độ và sở thích của BN liên quan đến lựa chọn giới tính và do đó nhấn mạnh khả năng thành hiện thực của những câu trả lời trên. Một mối quan tâm khác là các bậc cha mẹ tương lai không phải cư dân Mỹ, nhưng là cư dân của các quốc gia có sự bất công về giới đáng kể, có thể đến Mỹ để lựa chọn giới tính không vì lý do y tế. Ngoài ra việc sử dụng IVF để lựa chọn giới tính có thể chỉ dành cho những người có nguồn lực kinh tế để chi trả.
 
Từ góc độ công lý, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng quyết định cung cấp dịch vụ IVF để lựa chọn giới tính không vì lý do y tế của các trung tâm hỗ trợ sinh sản không gây ảnh hưởng xấu đến việc tiếp cận dịch vụ vì lý do y tế. Ngoài ra, bất kỳ quyết định cung cấp dịch vụ nào cũng phải áp dụng các chính sách liên quan đến việc lựa chọn giới tính phi y tế một cách bình đẳng cho tất cả bệnh nhân không phân biệt chủng tộc, dân tộc, tôn giáo, khuynh hướng tình dục hoặc tình trạng hôn nhân. Đối với tất cả BN thực hiện PGT-A để lựa chọn giới tính, các trung tâm IVF phải đảm bảo có sự đồng thuận khi tư vấn và BN không bị ép buộc lựa chọn thủ thuật. Các trung tâm cung cấp dịch vụ hỗ trợ sinh sản không có trách nhiệm đạo đức trong quyết định "cung cấp hoặc từ chối cung cấp" các phương pháp lựa chọn giới tính không vì lý do y tế.
 
KẾT LUẬN
Tóm lại, những trung tâm IVF hiện đang tranh cãi về vấn đề ủng hộ hoặc phản đối cung cấp dịch vụ lựa chọn giới tính cho các mục đích phi y tế dựa trên bối cảnh đạo đức xã hội khác nhau. Các lập luận liên quan đến quyền tự chủ của BN và quyền tự do sinh sản đã được đưa ra để ủng hộ việc thực hành. Rủi ro và gánh nặng của dịch vụ, phân biệt ​​giới tính và các vấn đề về công lý đều làm dấy lên lo ngại về thực hành này. Các trung tâm IVF phải chú ý đảm bảo rằng BN được thông báo đầy đủ về các rủi ro và gánh nặng của việc này và họ không bị ép buộc phải thực hiện quy trình này. Bởi vì thực hành này vẫn còn gây tranh cãi về mặt đạo đức, các trung tâm IVF được khuyến khích soạn thảo và đưa ra các chính sách bằng văn bản quy định dịch vụ lựa chọn giới tính phi y tế có được cung cấp hay không và trong những trường hợp nào.
 
Tài liệu tham khảo: Ethics Committee of the American Society for Reproductive Medicine, Use of reproductive technology for sex selection for nonmedical reasons: an Ethics Committee opinion, Fertility and Sterility, 2022.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK