Tin tức
on Tuesday 22-03-2022 2:17pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Thị Kim Ngân - IVFMD Tân Bình
Độ dày nội mạc tử cung là một yếu tố quan trọng và được theo dõi thường xuyên trong các chu kỳ IVF. Nghiên cứu của nhóm tác giả trước đó cho thấy độ dày nội mạc tử cung <8 mm tại thời điểm hCG trong chu kỳ chuyển phôi tươi (IVF-ET) và <7 mm tại thời điểm bắt đầu progesterone trong chu kỳ chuyển phôi trữ (FET) có liên quan đến việc giảm đáng kể tỷ lệ trẻ sinh sống. Nội mạc tử cung mỏng cũng liên quan đến việc tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên, thai ngoài tử cung, cân nặng trẻ sau sinh thấp và các tai biến sản khoa khác.
Trong các báo cáo, độ dày nội mạc tử cung từ 7–8 mm trở lên, nhìn chung mang lại kết quả IVF cải thiện hơn. Một nghiên cứu hồi cứu trên 6.331 chu kỳ chuyển phôi tươi cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn khi độ dày nội mạc tử cung ≥ 11 mm so với 7–11 mm. Một nghiên cứu khác trên 10.787 chu kỳ IVF-ET cho thấy ở nhóm có độ dày nội mạc tử cung > 15 mm cho tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn đáng kể so với nhóm có độ dày từ 8–11 hoặc 11,1–14,9 mm. Một báo cáo khác trên 9.952 chu kỳ IVF-ET cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn đáng kể với độ dày nội mạc tử cung ≥ 15mm so với 9–14 mm.
Dữ liệu về các chu kỳ chuyển phôi trữ lại ít nhất quán hơn. Nghiên cứu gần nhất với 1.512 chu kỳ FET cho thấy độ dày nội mạc tử cung không có mối tương quan với tỷ lệ sinh sống. Ngược lại, một nghiên cứu khác với 768 chu kỳ FET cho thấy độ dày nội mạc tử cung < 7 hoặc > 14 mm cho tỷ lệ thai thấp nhất và độ dày từ 9–14 mm cho tỷ lệ sinh sống cao hơn đáng kể so với 7–8 mm. Một báo cáo khác với 2.997 chu kỳ FET cho thấy nhóm có độ dày nội mạc tử cung < 9 mm cho tỷ lệ sinh sống thấp hơn đáng kể so với nhóm ≥ 9 mm, nhưng lại không có sự khác biệt đáng kể về kết quả giữa nhóm 9–13 mm và ≥ 14 mm. Trong nghiên cứu này, tác giả Neal Mahutte và cộng sự (2022) đã sử dụng nguồn dữ liệu lớn hơn để phân tích ảnh hưởng của độ dày nội mạc tử cung lên tỷ lệ sinh sống trong chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ.
Nghiên cứu được tiến hành hồi cứu kết quả từ 2013 đến 2019 với tổng số 96.760 chu kỳ, trong đó, 43.383 chu kỳ chuyển phôi tươi và 53.377 chu kỳ chuyển phôi trữ. Độ dày nội mạc tử cung vào ngày tiêm mũi trigger đối với chu kỳ IVF-ET, và trước khi bắt đầu sử dụng progesterone đối với chu kỳ FET được ghi nhận và phân tích tương quan với các kết quả lâm sàng như tỷ lệ thai, tỷ lệ trẻ sinh sống, ...
Kết quả chính thu được như sau:
Kết luận: Kết quả từ nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống tăng lên đáng kể khi nội mạc tử cung dày lên cho đến khi đạt độ dày 10–12 mm đối với chu kỳ IVF-ET và 7–10 mm với chu kỳ FET, sau những ngưỡng này, tỷ lệ sinh sống giảm. Độ dày nội mạc tử cung < 6 mm làm giảm đáng kể tỷ lệ sinh sống trong các chu kỳ chuyển phôi tươi và phôi trữ.
Nguồn: Mahutte, N., Hartman, M., Meng, L., Lanes, A., Luo, Z. C., & Liu, K. E. Optimal endometrial thickness in fresh and frozen-thaw in vitro fertilization cycles: an analysis of live birth rates from 96,000 autologous embryo transfers. Fertility and Sterility 2022.
Độ dày nội mạc tử cung là một yếu tố quan trọng và được theo dõi thường xuyên trong các chu kỳ IVF. Nghiên cứu của nhóm tác giả trước đó cho thấy độ dày nội mạc tử cung <8 mm tại thời điểm hCG trong chu kỳ chuyển phôi tươi (IVF-ET) và <7 mm tại thời điểm bắt đầu progesterone trong chu kỳ chuyển phôi trữ (FET) có liên quan đến việc giảm đáng kể tỷ lệ trẻ sinh sống. Nội mạc tử cung mỏng cũng liên quan đến việc tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên, thai ngoài tử cung, cân nặng trẻ sau sinh thấp và các tai biến sản khoa khác.
Trong các báo cáo, độ dày nội mạc tử cung từ 7–8 mm trở lên, nhìn chung mang lại kết quả IVF cải thiện hơn. Một nghiên cứu hồi cứu trên 6.331 chu kỳ chuyển phôi tươi cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn khi độ dày nội mạc tử cung ≥ 11 mm so với 7–11 mm. Một nghiên cứu khác trên 10.787 chu kỳ IVF-ET cho thấy ở nhóm có độ dày nội mạc tử cung > 15 mm cho tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn đáng kể so với nhóm có độ dày từ 8–11 hoặc 11,1–14,9 mm. Một báo cáo khác trên 9.952 chu kỳ IVF-ET cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn đáng kể với độ dày nội mạc tử cung ≥ 15mm so với 9–14 mm.
Dữ liệu về các chu kỳ chuyển phôi trữ lại ít nhất quán hơn. Nghiên cứu gần nhất với 1.512 chu kỳ FET cho thấy độ dày nội mạc tử cung không có mối tương quan với tỷ lệ sinh sống. Ngược lại, một nghiên cứu khác với 768 chu kỳ FET cho thấy độ dày nội mạc tử cung < 7 hoặc > 14 mm cho tỷ lệ thai thấp nhất và độ dày từ 9–14 mm cho tỷ lệ sinh sống cao hơn đáng kể so với 7–8 mm. Một báo cáo khác với 2.997 chu kỳ FET cho thấy nhóm có độ dày nội mạc tử cung < 9 mm cho tỷ lệ sinh sống thấp hơn đáng kể so với nhóm ≥ 9 mm, nhưng lại không có sự khác biệt đáng kể về kết quả giữa nhóm 9–13 mm và ≥ 14 mm. Trong nghiên cứu này, tác giả Neal Mahutte và cộng sự (2022) đã sử dụng nguồn dữ liệu lớn hơn để phân tích ảnh hưởng của độ dày nội mạc tử cung lên tỷ lệ sinh sống trong chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ.
Nghiên cứu được tiến hành hồi cứu kết quả từ 2013 đến 2019 với tổng số 96.760 chu kỳ, trong đó, 43.383 chu kỳ chuyển phôi tươi và 53.377 chu kỳ chuyển phôi trữ. Độ dày nội mạc tử cung vào ngày tiêm mũi trigger đối với chu kỳ IVF-ET, và trước khi bắt đầu sử dụng progesterone đối với chu kỳ FET được ghi nhận và phân tích tương quan với các kết quả lâm sàng như tỷ lệ thai, tỷ lệ trẻ sinh sống, ...
Kết quả chính thu được như sau:
- Trong các chu kỳ IVF-ET, độ dày nội mạc tử cung tăng có liên quan đến sự gia tăng đáng kể số lượng noãn trung bình thu được, nồng độ estradiol đỉnh, số lượng phôi hữu dụng, tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống, trọng lượng trẻ sơ sinh và giảm tỷ lệ sẩy thai. Tỷ lệ sinh sống ổn định khi độ dày nội mạc tử cung đạt từ 10–12 mm.
- Trong các chu kỳ FET, sự cải thiện về tỷ lệ sinh sống khi tăng độ dày nội mạc tử cung không phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân, thời điểm chuyển phôi (giai đoạn phôi phân chia hay phôi nang), hoặc số lượng noãn thu được. Tỷ lệ sinh sống ổn định khi nội mạc tử cung đạt từ 7–10 mm.
Kết luận: Kết quả từ nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống tăng lên đáng kể khi nội mạc tử cung dày lên cho đến khi đạt độ dày 10–12 mm đối với chu kỳ IVF-ET và 7–10 mm với chu kỳ FET, sau những ngưỡng này, tỷ lệ sinh sống giảm. Độ dày nội mạc tử cung < 6 mm làm giảm đáng kể tỷ lệ sinh sống trong các chu kỳ chuyển phôi tươi và phôi trữ.
Nguồn: Mahutte, N., Hartman, M., Meng, L., Lanes, A., Luo, Z. C., & Liu, K. E. Optimal endometrial thickness in fresh and frozen-thaw in vitro fertilization cycles: an analysis of live birth rates from 96,000 autologous embryo transfers. Fertility and Sterility 2022.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tính linh hoạt của phôi tiền làm tổ - Ngày đăng: 15-03-2022
Ảnh hưởng của các phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung lên cân nặng lúc sinh của trẻ trong chu kỳ chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 15-03-2022
Cách tiếp cận nhóm bệnh nhân đáp ứng kém thực hiện IVF - Ngày đăng: 17-03-2022
Chiến lược phân tích SNP (single nucleotide polymorphism) cho các bệnh nhân thực hiện chẩn đoán di truyền tiền làm tổ thể đơn gen kết hợp HLA (PGD M-HLA) - Ngày đăng: 14-03-2022
Kháng nguyên bạch cầu người của cha mẹ là yếu tố dự đoán tỷ lệ trẻ sinh sống và nguy cơ bong nhau non trong điều trị Hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 14-03-2022
Tác động ức chế các con đường tích lũy năng lượng của COVID-19 trong các mẫu tinh dịch người - Ngày đăng: 14-03-2022
Kết quả lâm sàng của chuyển phôi nang ngày 7: Tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp của các chu kỳ IVF đông lạnh-rã đông - Ngày đăng: 14-03-2022
Khoảng thời gian từ lúc tiêm hCG đến lúc chọc hút noãn: phân tích sự trưởng thành noãn, hình thái phôi, động học hình thái phôi và kết cục IVF - Ngày đăng: 14-03-2022
PGT-A:ĐỐI TƯỢNG VÀ THỜI ĐIỂM THÍCH HỢP NHẤT ĐỂ THỰC HIỆN- MỘT TỔNG QUAN HỆ THỐNG VÀ PHÂN TÍCH GỘP CÁC NGHIÊN CỨU RCT - Ngày đăng: 14-03-2022
Tác động của hóa trị ung thư trước khi trữ lạnh mô vỏ buồng trứng đối với các trường hợp cấy ghép mô buồng trứng - Ngày đăng: 09-03-2022
RNA TINH TRÙNG - NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT - Ngày đăng: 09-03-2022
Dược thực phẩm: một thách thức mới chống lại chấn thương tinh hoàn do cadmium - Ngày đăng: 09-03-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK