Tin tức
on Monday 14-03-2022 5:33pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Minh Phượng, IVFMD Tân Bình
Trong điều kiện nuôi cấy invitro, phôi người thường đạt trạng thái phôi nang vào ngày 5 (112-120 giờ sau thụ tinh), tuy nhiên một số phôi lại có tốc độ phát triển chậm hơn. Thời gian hình thành phôi nang và khoang phôi nở rộng hoàn toàn được xem là các yếu tố tiên lượng cho kết quả điều trị. Năm 2010, Sunkara và cộng sự cho thấy, kết quả lâm sàng của phôi đông lạnh có hình thái phát triển giống nhau vào ngày thứ 5 hoặc thứ 6 là tương tự nhau. Một phân tích tổng hợp khác lại cho kết quả ngược lại, tỷ lệ thai lâm sàng, trẻ sinh sống sau chuyển phôi cao hơn ở nhóm phôi đông lạnh vào ngày 5 so với ngày 6.
Trong hầu hết các trường hợp phôi thường sẽ được đông lạnh ở ngày 6 và loại bỏ các phôi nếu không đạt tới giai đoạn phôi nang, người ta cho rằng phôi nang ngày 7 đại diện cho các phôi tiên lượng xấu. Một số nghiên cứu về tiềm năng của các phôi nang ngày 7 đã chứng minh rằng, sau khi trải qua quá trình đông lạnh rã đông, chúng có thể đạt cấp độ hình thái tốt nhất, ở trạng thái nguyên bội và có em bé khỏe mạnh ra đời từ các phôi này. Báo cáo của Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ vào năm 2018 đã cho thấy phôi ngày 7 vẫn là một lựa chọn khả thi mặc dù dữ liệu lâm sàng còn rất ít ỏi. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích phân tích dữ liệu có sẵn về kết quả lâm sàng khi sử dụng phôi nang ngày 7.
Đây là một phân tích tổng hợp bao gồm 10 nghiên cứu thuần tập hồi cứu với các kết quả chính là tỷ lệ thai lâm sàng (CPR), các kết quả phụ: tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR), nguyên bội, tỷ lệ sống sau rã.
Một số kết quả thu được:
Nghiên cứu này cho thấy mối liên hệ giữa sự hình thành phôi nang chậm và tiên lượng kém hơn về tỷ lệ nguyên bội trong NST cũng như kết quả mang thai sau khi chuyển phôi trữ ngày 7. Kết quả hiện tại cho thấy, những phôi ngày 7 mặc dù kết quả thấp nhưng vẫn có tiềm năng dẫn đến một chu kỳ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm thành công. Ngoài ra, việc nuôi cấy phôi đến giai đoạn ngày 7 có thể có ý nghĩa đặc biệt trong thực hiện PGT bởi sự phát triển hoàn thiện của tế bào lá nuôi phôi.
Nguồn: Corti, L., Cermisoni, G. C., Alteri, A., Pagliardini, L., Ambrosini, G., Andrisani, A., ... & Noventa, M. (2021). Clinical outcomes deriving from transfer of blastocysts developed in day 7: A systematic review and meta-analysis of frozen-thawed ivf cycles. Reproductive Sciences, 1-11.:
Trong điều kiện nuôi cấy invitro, phôi người thường đạt trạng thái phôi nang vào ngày 5 (112-120 giờ sau thụ tinh), tuy nhiên một số phôi lại có tốc độ phát triển chậm hơn. Thời gian hình thành phôi nang và khoang phôi nở rộng hoàn toàn được xem là các yếu tố tiên lượng cho kết quả điều trị. Năm 2010, Sunkara và cộng sự cho thấy, kết quả lâm sàng của phôi đông lạnh có hình thái phát triển giống nhau vào ngày thứ 5 hoặc thứ 6 là tương tự nhau. Một phân tích tổng hợp khác lại cho kết quả ngược lại, tỷ lệ thai lâm sàng, trẻ sinh sống sau chuyển phôi cao hơn ở nhóm phôi đông lạnh vào ngày 5 so với ngày 6.
Trong hầu hết các trường hợp phôi thường sẽ được đông lạnh ở ngày 6 và loại bỏ các phôi nếu không đạt tới giai đoạn phôi nang, người ta cho rằng phôi nang ngày 7 đại diện cho các phôi tiên lượng xấu. Một số nghiên cứu về tiềm năng của các phôi nang ngày 7 đã chứng minh rằng, sau khi trải qua quá trình đông lạnh rã đông, chúng có thể đạt cấp độ hình thái tốt nhất, ở trạng thái nguyên bội và có em bé khỏe mạnh ra đời từ các phôi này. Báo cáo của Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ vào năm 2018 đã cho thấy phôi ngày 7 vẫn là một lựa chọn khả thi mặc dù dữ liệu lâm sàng còn rất ít ỏi. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích phân tích dữ liệu có sẵn về kết quả lâm sàng khi sử dụng phôi nang ngày 7.
Đây là một phân tích tổng hợp bao gồm 10 nghiên cứu thuần tập hồi cứu với các kết quả chính là tỷ lệ thai lâm sàng (CPR), các kết quả phụ: tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR), nguyên bội, tỷ lệ sống sau rã.
Một số kết quả thu được:
- Tỷ lệ sống sau rã được đánh giá dựa trên 6 nghiên cứu, không có sự khác biệt về mặt thống kê giữa hai nhóm phôi trữ ngày 7 và phôi trữ ngày 5/6.
- Chuyển phôi trữ ngày 7 làm giảm đáng kể CPR, LBR so với ngày 5/6 (p <0,0001).
- Sinh thiết phôi nang vào ngày thứ 7 có liên quan đến việc giảm tỷ lệ nguyên bội đáng kể so với ngày 5/6 (p <0,0001).
Nghiên cứu này cho thấy mối liên hệ giữa sự hình thành phôi nang chậm và tiên lượng kém hơn về tỷ lệ nguyên bội trong NST cũng như kết quả mang thai sau khi chuyển phôi trữ ngày 7. Kết quả hiện tại cho thấy, những phôi ngày 7 mặc dù kết quả thấp nhưng vẫn có tiềm năng dẫn đến một chu kỳ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm thành công. Ngoài ra, việc nuôi cấy phôi đến giai đoạn ngày 7 có thể có ý nghĩa đặc biệt trong thực hiện PGT bởi sự phát triển hoàn thiện của tế bào lá nuôi phôi.
Nguồn: Corti, L., Cermisoni, G. C., Alteri, A., Pagliardini, L., Ambrosini, G., Andrisani, A., ... & Noventa, M. (2021). Clinical outcomes deriving from transfer of blastocysts developed in day 7: A systematic review and meta-analysis of frozen-thawed ivf cycles. Reproductive Sciences, 1-11.:
Các tin khác cùng chuyên mục:
Khoảng thời gian từ lúc tiêm hCG đến lúc chọc hút noãn: phân tích sự trưởng thành noãn, hình thái phôi, động học hình thái phôi và kết cục IVF - Ngày đăng: 14-03-2022
PGT-A:ĐỐI TƯỢNG VÀ THỜI ĐIỂM THÍCH HỢP NHẤT ĐỂ THỰC HIỆN- MỘT TỔNG QUAN HỆ THỐNG VÀ PHÂN TÍCH GỘP CÁC NGHIÊN CỨU RCT - Ngày đăng: 14-03-2022
Tác động của hóa trị ung thư trước khi trữ lạnh mô vỏ buồng trứng đối với các trường hợp cấy ghép mô buồng trứng - Ngày đăng: 09-03-2022
RNA TINH TRÙNG - NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT - Ngày đăng: 09-03-2022
Dược thực phẩm: một thách thức mới chống lại chấn thương tinh hoàn do cadmium - Ngày đăng: 09-03-2022
Lão hóa và sự sinh tinh - Ngày đăng: 09-03-2022
Dehydroepiandrosterone thay đổi quá trình chuyển hóa năng lượng để tăng cường hình thành ty thể trong khả năng sinh sản của phụ nữ lớn tuổi - Ngày đăng: 09-03-2022
Nhiễm khuẩn trong công nghệ hỗ trợ sinh sản: nguồn gốc, sự phổ biến và chi phí khắc phục - Ngày đăng: 09-03-2022
Khả năng phát triển và kết quả chuyển phôi trữ những phôi từ hợp tử 0PN ở những chu kì IVF cổ điển - Ngày đăng: 09-03-2022
Chích ngừa vắc-xin SARS-CoV-2 bất hoạt không ảnh hưởng kết quả thụ tinh trong ống nghiệm: Một nghiên cứu sử dụng phương pháp đánh giá ghép cặp dựa trên điểm xu hướng (Propensity Score-Matched Study) - Ngày đăng: 07-03-2022
Mối liên quan giữa nồng độ chemerin trong huyết thanh và gãy xương do loãng xương với phụ nữ lớn tuổi tại Trung Quốc - Ngày đăng: 07-03-2022
Tiêm huyết tương giàu tiểu cầu cải thiện độ dày và đáp ứng NMTC - Ngày đăng: 07-03-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK