Tin tức
on Wednesday 09-03-2022 11:46pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Vân Anh – IVF Vạn Hạnh
Công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology – ART) ra đời mang đến cơ hội có con cho các bệnh nhân bị rối loạn phóng noãn, bất thường nội tiết và các bệnh vùng chậu. Tuy nhiên, kết quả điều trị ở những phụ nữ lớn tuổi còn thấp và các nghiên cứu cho thấy rằng yếu tố chính dẫn đến giảm khả năng sinh sản là do noãn bị lão hóa. Đồng thời, số lượng ty thể trong tế bào thay đổi theo độ tuổi. Ở phụ nữ lớn tuổi, khả năng kháng oxy hóa giảm dần, các gốc oxy hóa nội bào giảm, các gốc oxy hóa (Reactive oxygen species - ROS) tích tụ. Ty thể trong noãn tiếp xúc với ROS lâu ngày làm tăng nguy cơ gây đột biến và bất thường chức năng ảnh hưởng đến chất lượng của noãn.
Noãn cần rất nhiều năng lượng để duy trì sự ổn định. Tuy nhiên, noãn không thể dị hóa trực tiếp glucose bằng quá trình đường phân mà nhận các chất dinh dưỡng được chuyển hóa từ các kênh của tế bào cumulus (Cumulus cell – CC). Do hoạt động của phosphofructokinase và lactate dehydrogenase của noãn có hiệu suất đường phân thấp chỉ bằng 50% so với phức hợp tế bào cumulus - noãn (Cumulus–oocyte complexes – COC). Do đó, pyruvate và lactate từ quá trình đường phân trong CC đến ty thể của noãn để cung cấp năng lượng cho quá trình dị hóa của nó. Noãn đảm bảo cung cấp pyruvate bằng cách điều chỉnh sự biểu hiện của các gen glycolytic trong CC. Như vậy, sự trưởng thành của noãn nhờ sự cung cấp năng lượng bởi các CC và tế bào hạt (Granulosa cell – GC).
Có nhiều chất giúp kích hoạt ty thể và tăng cường chức năng nội tiết nhờ đó bổ sung dinh dưỡng cho tế bào mầm. Trong đó, dehydroepiandrosterone (DHEA) là chất nền cần thiết để tổng hợp các hormone steroid có nhiều nhất trong tuần hoàn máu người. DHEA chủ yếu được sản xuất ở vỏ thượng thận và tế bào buồng trứng. Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh uống DHEA 50mg mỗi ngày làm tăng đáng kể lượng testosterone tự do, testosterone toàn phần, androstenedione và DHEA sulfate (DHEA-S). Các kết quả tương tự khi bổ sung DHEA trong khoảng 3 tháng ở bệnh nhân có đáp ứng kém buồng trứng làm tăng DHEA-S và testosterone toàn phần lên lần lượt là 4,4 và 3 lần. Bên cạnh đó, dịch tễ học cho thấy DHEA trong huyết thanh giảm theo độ tuổi.
Dựa trên những nghiên cứu trước đây, Li và cộng sự (2021) đã đánh giá giả thuyết việc bổ sung DHEA có thể làm trẻ hóa noãn bằng cách kích hoạt năng lượng trong CC và GC cung cấp năng lượng cho noãn. Do đó, nghiên cứu so sánh các cơ chế chuyển hóa phân tử và đặc điểm lâm sàng giữa nhóm phụ nữ vô sinh, những người được nhận DHEA và không được nhận DHEA.
Phương pháp: Nghiên cứu kéo dài từ tháng 6 năm 2017 đến tháng 2 năm 2018 tại Bệnh viện Đa khoa Cựu chiến binh Cao Hùng, Đài Loan. Các bệnh nhân nhận vào nghiên cứu được chia làm hai nhóm: Nhóm trẻ (< 38 tuổi), nhóm lớn tuổi (> 38 tuổi). Các bệnh nhân nhóm lớn tuổi được chia ngẫu nhiên dùng DHEA hoặc không dùng DHEA. Bệnh nhân DHEA dùng với liều DHEA 25mg (Viên nang New Dios-25 Veg Toppure Biotechnology Co., Ltd), ba lần mỗi ngày và ít nhất trong 8 tuần trước khi thực hiện chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – IVF). Bệnh nhân nhóm trẻ tuổi không dùng DHEA là nhóm đối chứng bình thường và nhóm lớn tuổi không dùng DHEA là nhóm đối chứng khác. Những bệnh nhân có tiền sử cắt buồng trứng, nhận noãn hiến tặng, hóa trị - xạ trị vùng chậu hay điều trị nội tiết trong vong 3 tháng bị loại ra khỏi nghiên cứu này.
Kết quả: Tổng cộng có 77 bệnh nhân, nhóm trẻ tuổi (n = 32), nhóm lớn tuổi (n = 25) và nhóm lớn tuổi dùng DHEA (n = 20). Có sự khác biệt về tuổi trung bình và lần làm IVF trước đó giữa 3 nhóm. Ngoài ra, không có sự khác biệt đáng kể nào về đặc điểm bệnh nhân.
Khi so sánh giữa hai nhóm cho thấy số lượng noãn (8,7 ± 4,1 so với 3,2 ± 2,1), noãn MII (6,4 ± 3,2 so với 1,8 ± 1,7), tỷ lệ thụ tinh (60,7 ± 22,1 so với 48,1 ± 32,0), số phôi ngày ba (6,6 ± 3,3 so với 1,7 ± 2,1) và số phôi ngày ba chất lượng tốt (3,1 ± 2,1 so với 0,7 ± 1,2) cao hơn đáng kể ở nhóm trẻ tuổi. Đồng thời, kết quả tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ thai diễn tiến và tỷ lệ sinh sống ở nhóm trẻ tuổi cao có ý nghĩa thống kê so với nhóm lớn tuổi. Khi phân tích nhóm lớn tuổi có DHEA ghi nhận sự gia tăng đáng kể số lượng noãn (3,2 ± 2,1 so với 5,2 ± 1,4), số lượng phôi ngày 3 (1,7 ± 2,1 so với. 3,4 ± 1,6) và số lượng phôi ngày 3 chất lượng tốt (0,7 ± 1,2 so với 2,4 ± 1,7) so với nhóm lớn tuổi không dùng DHEA. Bên cạnh đó, nhóm không có DHEA cũng có tỉ lệ mang thai lâm sàng (16% và 26,3%), tỷ lệ thai diễn tiến (16% và 2613%) và tỷ lệ trẻ sinh sống (12% và 16,7%) thấp hơn so với nhóm có DHEA.
Để xác định con đường trao đổi chất do DHEA điều chỉnh trong các CC, nhóm nghiên cứu đã phân tích các gen chuyển hóa năng lượng trong ba nhóm. Kết quả cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các tế bào về số lượng chất chuyển hóa có nguồn gốc từ quá trình đường phân và chu trình TCA. Hơn nữa, pyruvate điều chỉnh gen quan trọng của acetyl-CoA, PDHA cao hơn đáng kể ở nhóm DHEA so với nhóm lớn tuổi không DHEA. Những dữ liệu trên gợi ý rằng DHEA gây ra những thay đổi trong quá trình chuyển hóa glucose và chu trình TCA trong các tế bào CC lão hóa. Kết quả đo tốc độ tiêu thụ oxy cho thấy việc sử dụng DHEA giúp điều chỉnh ty thể, tăng tốc độ chuyển hóa của ty thể làm tăng năng lượng nội bào.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy bổ sung DHEA trước khi điều trị IVF làm thay đổi mức độ các gen đường phân và tăng cường quá trình phosphoryl hóa oxy hóa ty thể. Do đó, tăng cường chuyển hóa năng lượng của noãn và nâng cao tỷ lệ mang thai của bệnh nhân hiếm muộn lớn tuổi. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cung cấp cơ sở lý luận khả thi cho việc sử dụng bổ sung DHEA cho những bệnh nhân điều trị IVF.
Nguồn: Li, C. J., Lin, L. T., & Tsui, K. H. (2021). Dehydroepiandrosterone Shifts Energy Metabolism to Increase Mitochondrial Biogenesis in Female Fertility with Advancing Age. Nutrients, 13(7), 2449.
Công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology – ART) ra đời mang đến cơ hội có con cho các bệnh nhân bị rối loạn phóng noãn, bất thường nội tiết và các bệnh vùng chậu. Tuy nhiên, kết quả điều trị ở những phụ nữ lớn tuổi còn thấp và các nghiên cứu cho thấy rằng yếu tố chính dẫn đến giảm khả năng sinh sản là do noãn bị lão hóa. Đồng thời, số lượng ty thể trong tế bào thay đổi theo độ tuổi. Ở phụ nữ lớn tuổi, khả năng kháng oxy hóa giảm dần, các gốc oxy hóa nội bào giảm, các gốc oxy hóa (Reactive oxygen species - ROS) tích tụ. Ty thể trong noãn tiếp xúc với ROS lâu ngày làm tăng nguy cơ gây đột biến và bất thường chức năng ảnh hưởng đến chất lượng của noãn.
Noãn cần rất nhiều năng lượng để duy trì sự ổn định. Tuy nhiên, noãn không thể dị hóa trực tiếp glucose bằng quá trình đường phân mà nhận các chất dinh dưỡng được chuyển hóa từ các kênh của tế bào cumulus (Cumulus cell – CC). Do hoạt động của phosphofructokinase và lactate dehydrogenase của noãn có hiệu suất đường phân thấp chỉ bằng 50% so với phức hợp tế bào cumulus - noãn (Cumulus–oocyte complexes – COC). Do đó, pyruvate và lactate từ quá trình đường phân trong CC đến ty thể của noãn để cung cấp năng lượng cho quá trình dị hóa của nó. Noãn đảm bảo cung cấp pyruvate bằng cách điều chỉnh sự biểu hiện của các gen glycolytic trong CC. Như vậy, sự trưởng thành của noãn nhờ sự cung cấp năng lượng bởi các CC và tế bào hạt (Granulosa cell – GC).
Có nhiều chất giúp kích hoạt ty thể và tăng cường chức năng nội tiết nhờ đó bổ sung dinh dưỡng cho tế bào mầm. Trong đó, dehydroepiandrosterone (DHEA) là chất nền cần thiết để tổng hợp các hormone steroid có nhiều nhất trong tuần hoàn máu người. DHEA chủ yếu được sản xuất ở vỏ thượng thận và tế bào buồng trứng. Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh uống DHEA 50mg mỗi ngày làm tăng đáng kể lượng testosterone tự do, testosterone toàn phần, androstenedione và DHEA sulfate (DHEA-S). Các kết quả tương tự khi bổ sung DHEA trong khoảng 3 tháng ở bệnh nhân có đáp ứng kém buồng trứng làm tăng DHEA-S và testosterone toàn phần lên lần lượt là 4,4 và 3 lần. Bên cạnh đó, dịch tễ học cho thấy DHEA trong huyết thanh giảm theo độ tuổi.
Dựa trên những nghiên cứu trước đây, Li và cộng sự (2021) đã đánh giá giả thuyết việc bổ sung DHEA có thể làm trẻ hóa noãn bằng cách kích hoạt năng lượng trong CC và GC cung cấp năng lượng cho noãn. Do đó, nghiên cứu so sánh các cơ chế chuyển hóa phân tử và đặc điểm lâm sàng giữa nhóm phụ nữ vô sinh, những người được nhận DHEA và không được nhận DHEA.
Phương pháp: Nghiên cứu kéo dài từ tháng 6 năm 2017 đến tháng 2 năm 2018 tại Bệnh viện Đa khoa Cựu chiến binh Cao Hùng, Đài Loan. Các bệnh nhân nhận vào nghiên cứu được chia làm hai nhóm: Nhóm trẻ (< 38 tuổi), nhóm lớn tuổi (> 38 tuổi). Các bệnh nhân nhóm lớn tuổi được chia ngẫu nhiên dùng DHEA hoặc không dùng DHEA. Bệnh nhân DHEA dùng với liều DHEA 25mg (Viên nang New Dios-25 Veg Toppure Biotechnology Co., Ltd), ba lần mỗi ngày và ít nhất trong 8 tuần trước khi thực hiện chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – IVF). Bệnh nhân nhóm trẻ tuổi không dùng DHEA là nhóm đối chứng bình thường và nhóm lớn tuổi không dùng DHEA là nhóm đối chứng khác. Những bệnh nhân có tiền sử cắt buồng trứng, nhận noãn hiến tặng, hóa trị - xạ trị vùng chậu hay điều trị nội tiết trong vong 3 tháng bị loại ra khỏi nghiên cứu này.
Kết quả: Tổng cộng có 77 bệnh nhân, nhóm trẻ tuổi (n = 32), nhóm lớn tuổi (n = 25) và nhóm lớn tuổi dùng DHEA (n = 20). Có sự khác biệt về tuổi trung bình và lần làm IVF trước đó giữa 3 nhóm. Ngoài ra, không có sự khác biệt đáng kể nào về đặc điểm bệnh nhân.
Khi so sánh giữa hai nhóm cho thấy số lượng noãn (8,7 ± 4,1 so với 3,2 ± 2,1), noãn MII (6,4 ± 3,2 so với 1,8 ± 1,7), tỷ lệ thụ tinh (60,7 ± 22,1 so với 48,1 ± 32,0), số phôi ngày ba (6,6 ± 3,3 so với 1,7 ± 2,1) và số phôi ngày ba chất lượng tốt (3,1 ± 2,1 so với 0,7 ± 1,2) cao hơn đáng kể ở nhóm trẻ tuổi. Đồng thời, kết quả tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ thai diễn tiến và tỷ lệ sinh sống ở nhóm trẻ tuổi cao có ý nghĩa thống kê so với nhóm lớn tuổi. Khi phân tích nhóm lớn tuổi có DHEA ghi nhận sự gia tăng đáng kể số lượng noãn (3,2 ± 2,1 so với 5,2 ± 1,4), số lượng phôi ngày 3 (1,7 ± 2,1 so với. 3,4 ± 1,6) và số lượng phôi ngày 3 chất lượng tốt (0,7 ± 1,2 so với 2,4 ± 1,7) so với nhóm lớn tuổi không dùng DHEA. Bên cạnh đó, nhóm không có DHEA cũng có tỉ lệ mang thai lâm sàng (16% và 26,3%), tỷ lệ thai diễn tiến (16% và 2613%) và tỷ lệ trẻ sinh sống (12% và 16,7%) thấp hơn so với nhóm có DHEA.
Để xác định con đường trao đổi chất do DHEA điều chỉnh trong các CC, nhóm nghiên cứu đã phân tích các gen chuyển hóa năng lượng trong ba nhóm. Kết quả cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các tế bào về số lượng chất chuyển hóa có nguồn gốc từ quá trình đường phân và chu trình TCA. Hơn nữa, pyruvate điều chỉnh gen quan trọng của acetyl-CoA, PDHA cao hơn đáng kể ở nhóm DHEA so với nhóm lớn tuổi không DHEA. Những dữ liệu trên gợi ý rằng DHEA gây ra những thay đổi trong quá trình chuyển hóa glucose và chu trình TCA trong các tế bào CC lão hóa. Kết quả đo tốc độ tiêu thụ oxy cho thấy việc sử dụng DHEA giúp điều chỉnh ty thể, tăng tốc độ chuyển hóa của ty thể làm tăng năng lượng nội bào.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy bổ sung DHEA trước khi điều trị IVF làm thay đổi mức độ các gen đường phân và tăng cường quá trình phosphoryl hóa oxy hóa ty thể. Do đó, tăng cường chuyển hóa năng lượng của noãn và nâng cao tỷ lệ mang thai của bệnh nhân hiếm muộn lớn tuổi. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cung cấp cơ sở lý luận khả thi cho việc sử dụng bổ sung DHEA cho những bệnh nhân điều trị IVF.
Nguồn: Li, C. J., Lin, L. T., & Tsui, K. H. (2021). Dehydroepiandrosterone Shifts Energy Metabolism to Increase Mitochondrial Biogenesis in Female Fertility with Advancing Age. Nutrients, 13(7), 2449.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Nhiễm khuẩn trong công nghệ hỗ trợ sinh sản: nguồn gốc, sự phổ biến và chi phí khắc phục - Ngày đăng: 09-03-2022
Khả năng phát triển và kết quả chuyển phôi trữ những phôi từ hợp tử 0PN ở những chu kì IVF cổ điển - Ngày đăng: 09-03-2022
Chích ngừa vắc-xin SARS-CoV-2 bất hoạt không ảnh hưởng kết quả thụ tinh trong ống nghiệm: Một nghiên cứu sử dụng phương pháp đánh giá ghép cặp dựa trên điểm xu hướng (Propensity Score-Matched Study) - Ngày đăng: 07-03-2022
Mối liên quan giữa nồng độ chemerin trong huyết thanh và gãy xương do loãng xương với phụ nữ lớn tuổi tại Trung Quốc - Ngày đăng: 07-03-2022
Tiêm huyết tương giàu tiểu cầu cải thiện độ dày và đáp ứng NMTC - Ngày đăng: 07-03-2022
Ảnh hưởng của phẫu thuật giảm béo đối với sức khỏe của phụ nữ mang thai - Ngày đăng: 25-02-2022
Nghiên cứu hồi cứu: phân tích kết quả IVF/ICSI ở phụ nữ hiếm muộn có tiền sử ung thư tuyến giáp - Ngày đăng: 25-02-2022
TỔNG QUAN CÁC KHÍA CẠNH VỀ ĐỘNG CƠ THÚC ĐẨY, YẾU TỐ ĐI ĐẾN QUYẾT ĐỊNH, THÁI ĐỘ VÀ TRẢI NGHIỆM CỦA BỆNH NHÂN KHI THỰC HIỆN PGT - Ngày đăng: 25-02-2022
Hiệu quả và độ an toàn của papaverine trong việc tăng cường khả năng di động của tinh trùng người - Ngày đăng: 25-02-2022
Kết quả lâm sàng các trường hợp rescue ICSI tại các thời điểm khác nhau sau khi thực hiện IVF cổ điển - Ngày đăng: 25-02-2022
Bổ trợ công cụ đánh giá hình thái phôi truyền thống bằng phần mềm EEVATM giúp cải thiện kết quả ở các chu kì ttton chuyển phôi giai đoạn ngày 3: một phân tích hồi cứu - Ngày đăng: 15-02-2022
Nuôi phôi dài ngày có phải là chiến lược hiệu quả cho nhóm phụ nữ lớn tuổi? - Ngày đăng: 15-02-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK