Tin tức
on Wednesday 09-03-2022 11:39pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Như Quỳnh – IVF Vạn Hạnh
Phôi phát triển từ hợp tử 0PN thường được xem là bất thường và không được sử dụng. Tuy nhiên, khoảng 3% đến 75,6% những phôi này được chứng minh là lưỡng bội. Theo các nghiên cứu phân tích về nguồn gốc nhiễm sắc thể phôi, có 46,3% phôi nang phát triển từ hợp tử 0PN có tín hiệu của nhiễm sắc thể Y và khoảng 75,5% phôi nang có bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội. Điều này cho thấy không phải toàn bộ những phôi phát triển từ hợp tử 0PN đều bị bất thường. Vào thời điểm kiểm tra thụ tinh, việc không quan sát thấy tiền nhân có thể do tiền nhân trưởng thành đã vỡ trước đó hoặc do tiền nhân hình thành muộn. Việc không đồng bộ giữa thời điểm kiểm tra thụ tinh và thời điểm hình thành tiền nhân có thể ảnh hưởng đến kết quả đánh giá thụ tinh. Nuôi cấy time-lapse có thể ghi nhận lại toàn bộ quá trình phát triển của phôi. Trên thực tế, việc áp dụng kĩ thuật nuôi cấy time-lapse vẫn chưa phổ biến. Phương pháp đánh giá hình thái vào thời điểm cố định vẫn là cách phổ biến để kiểm tra thụ tinh cũng như đánh giá chất lượng phôi. Chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGT) giúp đánh giá bộ nhiễm sắc thể phôi, từ đó phân biệt được phôi bình thường và phôi bất thường. Tuy nhiên, phương pháp này mang tính xâm lấn và kĩ thuật thao tác phức tạp.
Khả năng phát triển của phôi nang được đánh giá là có liên quan với sự bình thường của bộ nhiễm sắc thể phôi. Do vậy, so với phôi ngày 3, việc nuôi cấy và chuyển các phôi nang có nguồn gốc bất thường thụ tinh thường cho tỉ lệ thai và tỉ lệ làm tổ tương đương như phôi nang phát triển từ hợp tử 2PN. Ngoài ra, tốc độ phân chia cũng liên quan đến sự bình thường của bộ nhiễm sắc thể phôi và khả năng phát triển của phôi 2PN. Phôi ngày 3 có số lượng phôi bào phù hợp được chứng minh có tỉ lệ phát triển thành phôi nang và tỉ lệ làm tổ cao. Thời điểm hình thành phôi nang cũng có liên quan đến kết quả lâm sàng. Hiện tại, những hiểu biết về tiềm năng phát triển và làm tổ của phôi từ hợp tử 0PN vẫn còn ít. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả tiến hành phân tích kết quả lâm sàng của việc chuyển phôi trữ giữa phôi phát triển từ hợp tử 0PN và 2PN.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thu thập thông tin của 1039 chu kì thụ tinh trong ống nghiệm bằng IVF cổ điển và kết quả lâm sàng của 659 chu kì chuyển phôi nang trữ từ tháng 1/2018 đến tháng 12/2019. Kết quả chính là tỉ lệ trẻ sinh sống. Kết quả phụ là tỉ lệ phôi nang, tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt, tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ sẩy thai, tỉ lệ dị tật. Những phôi có ³ 10 phôi bào, từ 7 – 9 phôi bào, £ 6 phôi bào vào ngày 3 được đánh giá lần lượt là phôi phát triển nhanh, phôi phát triển bình thường và phôi phát triển chậm. Dị tật được ghi nhận chủ yếu là dị tật bẩm sinh trên cơ thể và bệnh tim bẩm sinh từ tuần thai thứ 28 đến 6 tuần sau sinh.
Kết quả
Đánh giá noãn sau chọc hút
Trong 1039 chu kì chọc hút noãn, có 564 chu kì có phôi nuôi cấy từ hợp tử 2PN, 61 chu kì có phôi phát triển từ hợp tử 0PN và 414 chu kì còn lại có phôi phát triển từ hợp tử 2PN và 0PN. Nghiên cứu bao gồm các so sánh giữa nhóm 0PN và 2PN. Không có khác biệt về độ tuổi, chỉ số BMI, nồng độ LH, FSH, E2 vào ngày tiêm hCG, số ngày tiêm gonadotropin, liều tiêm gonadotropin và số lượng noãn chọc hút.
Sự phát triển của phôi từ hợp tử 0PN và 2PN
Tỉ lệ hình thành phôi nang và tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt ở nhóm phôi phát triển từ hợp tử 2PN cao hơn rõ rệt so với nhóm 0PN. Đặc điểm phát triển giữa nhóm 0PN và 2PN có sự khác biệt. Ở nhóm 2PN, tỉ lệ phôi nang và tỉ lệ phôi nang có chất lượng tốt ở những phôi có tốc độ phát triển trung bình cao hơn đáng kể so với nhóm phôi phát triển nhanh hoặc chậm. Ở nhóm 0PN, những phôi phát triển nhanh có tỉ lệ phôi nang và tỉ lệ phôi nang có chất lượng tốt cao nhất, tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ ở nhóm 2PN. Những phôi 0PN có tốc độ phát triển chậm có tỉ lệ phôi nang và tỉ lệ phôi nang có chất lượng tốt kém nhất.
Kết quả lâm sàng của chuyển phôi trữ
Kết quả lâm sàng của chuyển phôi trữ giữa nhóm 0PN và 2PN là tương đương nhau. Giữa 2 nhóm có sự tương đồng về số lượng phôi nang chuyển (một phôi hoặc 2 phôi), chỉ số cơ thể BMI, độ tuổi phụ nữ tham gia điều trị. Sự khác biệt về tỉ lệ thai lâm sàng (45,2% và 49,1%, 64,7% và 66,4%), tỉ lệ làm tổ (45,2% và 49,1%, 41,2% và 47,7%), tỉ lệ đa thai (0 và 0, 27,3% và 43,6%), tỉ lệ trẻ sinh sống (35,5% và 36,8%, 52,9% và 51,2%), tỉ lệ sảy thai (21,4% và 25,0%, 21,4% và 29,1%), tỉ lệ đái tháo đường thai kì (0 và 1,5%, 9,1% và 1.3%), tỉ lệ tăng huyết áp thai kì (0 và 2,3%, 0 và 0,9%), tỉ lệ bong nhau thai (0 và 0, 0 và 0,4%), tỉ lệ sinh non (0 và 1,5%, 9,1% và 4,4%), cân nặng sau sinh (3560,5 ± 343,0 g và 3429,3 ± 4572 g, 3245,5 ± 640,2 g và 3056,4 ± 537,1 g), giới tính nam/nữ (7/4 và 56/43, 7/4 và 117/113) giữa việc chuyển một phôi 0PN và một phôi 2PN hoặc chuyển hai phôi 0PN và hai phôi 2PN là không đáng kể.
Kết quả lâm sàng của chuyển phôi nang trữ 0PN ngày 5 hoặc ngày 6
Những phôi nang 0PN có tốc độ phát triển nhanh cho thấy tiềm năng phát triển ưu thế hơn những phôi còn lại. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa phôi ngày 5 và ngày 6 là không đáng kể khi so sánh về tỉ lệ thai lâm sàng (47,1% và 54,8%), tỉ lệ làm tổ (37,5% và 46,3%), tỉ lệ trẻ sinh sống (35,3% và 45,2%).
Kết luận
Trong các chu kì thụ tinh trong ống nghiệm, những phôi phát triển từ hợp tử 0PN có nhiều phôi bào vào ngày 3 có tiềm năng phát triển hơn những phôi còn lại. Việc lựa chọn sử dụng những phôi nang 0PN thông qua đánh giá về mặt hình thái có thể đạt được kết quả trẻ sinh sống ở mức chấp nhận được. Ngoài ra, thời gian để phôi đạt đến giai đoạn phôi nang (ngày 5 hoặc ngày 6) không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng.
Lược dịch từ: Fu, L., Zhou, W. and Li, Y., 2021. Development and frozen-thawed transfer of non-pronuclear zygotes-derived embryos in IVF cycles. European Journal of Obstetrics & Gynecology and Reproductive Biology, 264, pp.206-211.
Phôi phát triển từ hợp tử 0PN thường được xem là bất thường và không được sử dụng. Tuy nhiên, khoảng 3% đến 75,6% những phôi này được chứng minh là lưỡng bội. Theo các nghiên cứu phân tích về nguồn gốc nhiễm sắc thể phôi, có 46,3% phôi nang phát triển từ hợp tử 0PN có tín hiệu của nhiễm sắc thể Y và khoảng 75,5% phôi nang có bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội. Điều này cho thấy không phải toàn bộ những phôi phát triển từ hợp tử 0PN đều bị bất thường. Vào thời điểm kiểm tra thụ tinh, việc không quan sát thấy tiền nhân có thể do tiền nhân trưởng thành đã vỡ trước đó hoặc do tiền nhân hình thành muộn. Việc không đồng bộ giữa thời điểm kiểm tra thụ tinh và thời điểm hình thành tiền nhân có thể ảnh hưởng đến kết quả đánh giá thụ tinh. Nuôi cấy time-lapse có thể ghi nhận lại toàn bộ quá trình phát triển của phôi. Trên thực tế, việc áp dụng kĩ thuật nuôi cấy time-lapse vẫn chưa phổ biến. Phương pháp đánh giá hình thái vào thời điểm cố định vẫn là cách phổ biến để kiểm tra thụ tinh cũng như đánh giá chất lượng phôi. Chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGT) giúp đánh giá bộ nhiễm sắc thể phôi, từ đó phân biệt được phôi bình thường và phôi bất thường. Tuy nhiên, phương pháp này mang tính xâm lấn và kĩ thuật thao tác phức tạp.
Khả năng phát triển của phôi nang được đánh giá là có liên quan với sự bình thường của bộ nhiễm sắc thể phôi. Do vậy, so với phôi ngày 3, việc nuôi cấy và chuyển các phôi nang có nguồn gốc bất thường thụ tinh thường cho tỉ lệ thai và tỉ lệ làm tổ tương đương như phôi nang phát triển từ hợp tử 2PN. Ngoài ra, tốc độ phân chia cũng liên quan đến sự bình thường của bộ nhiễm sắc thể phôi và khả năng phát triển của phôi 2PN. Phôi ngày 3 có số lượng phôi bào phù hợp được chứng minh có tỉ lệ phát triển thành phôi nang và tỉ lệ làm tổ cao. Thời điểm hình thành phôi nang cũng có liên quan đến kết quả lâm sàng. Hiện tại, những hiểu biết về tiềm năng phát triển và làm tổ của phôi từ hợp tử 0PN vẫn còn ít. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả tiến hành phân tích kết quả lâm sàng của việc chuyển phôi trữ giữa phôi phát triển từ hợp tử 0PN và 2PN.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thu thập thông tin của 1039 chu kì thụ tinh trong ống nghiệm bằng IVF cổ điển và kết quả lâm sàng của 659 chu kì chuyển phôi nang trữ từ tháng 1/2018 đến tháng 12/2019. Kết quả chính là tỉ lệ trẻ sinh sống. Kết quả phụ là tỉ lệ phôi nang, tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt, tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ sẩy thai, tỉ lệ dị tật. Những phôi có ³ 10 phôi bào, từ 7 – 9 phôi bào, £ 6 phôi bào vào ngày 3 được đánh giá lần lượt là phôi phát triển nhanh, phôi phát triển bình thường và phôi phát triển chậm. Dị tật được ghi nhận chủ yếu là dị tật bẩm sinh trên cơ thể và bệnh tim bẩm sinh từ tuần thai thứ 28 đến 6 tuần sau sinh.
Kết quả
Đánh giá noãn sau chọc hút
Trong 1039 chu kì chọc hút noãn, có 564 chu kì có phôi nuôi cấy từ hợp tử 2PN, 61 chu kì có phôi phát triển từ hợp tử 0PN và 414 chu kì còn lại có phôi phát triển từ hợp tử 2PN và 0PN. Nghiên cứu bao gồm các so sánh giữa nhóm 0PN và 2PN. Không có khác biệt về độ tuổi, chỉ số BMI, nồng độ LH, FSH, E2 vào ngày tiêm hCG, số ngày tiêm gonadotropin, liều tiêm gonadotropin và số lượng noãn chọc hút.
Sự phát triển của phôi từ hợp tử 0PN và 2PN
Tỉ lệ hình thành phôi nang và tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt ở nhóm phôi phát triển từ hợp tử 2PN cao hơn rõ rệt so với nhóm 0PN. Đặc điểm phát triển giữa nhóm 0PN và 2PN có sự khác biệt. Ở nhóm 2PN, tỉ lệ phôi nang và tỉ lệ phôi nang có chất lượng tốt ở những phôi có tốc độ phát triển trung bình cao hơn đáng kể so với nhóm phôi phát triển nhanh hoặc chậm. Ở nhóm 0PN, những phôi phát triển nhanh có tỉ lệ phôi nang và tỉ lệ phôi nang có chất lượng tốt cao nhất, tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ ở nhóm 2PN. Những phôi 0PN có tốc độ phát triển chậm có tỉ lệ phôi nang và tỉ lệ phôi nang có chất lượng tốt kém nhất.
Kết quả lâm sàng của chuyển phôi trữ
Kết quả lâm sàng của chuyển phôi trữ giữa nhóm 0PN và 2PN là tương đương nhau. Giữa 2 nhóm có sự tương đồng về số lượng phôi nang chuyển (một phôi hoặc 2 phôi), chỉ số cơ thể BMI, độ tuổi phụ nữ tham gia điều trị. Sự khác biệt về tỉ lệ thai lâm sàng (45,2% và 49,1%, 64,7% và 66,4%), tỉ lệ làm tổ (45,2% và 49,1%, 41,2% và 47,7%), tỉ lệ đa thai (0 và 0, 27,3% và 43,6%), tỉ lệ trẻ sinh sống (35,5% và 36,8%, 52,9% và 51,2%), tỉ lệ sảy thai (21,4% và 25,0%, 21,4% và 29,1%), tỉ lệ đái tháo đường thai kì (0 và 1,5%, 9,1% và 1.3%), tỉ lệ tăng huyết áp thai kì (0 và 2,3%, 0 và 0,9%), tỉ lệ bong nhau thai (0 và 0, 0 và 0,4%), tỉ lệ sinh non (0 và 1,5%, 9,1% và 4,4%), cân nặng sau sinh (3560,5 ± 343,0 g và 3429,3 ± 4572 g, 3245,5 ± 640,2 g và 3056,4 ± 537,1 g), giới tính nam/nữ (7/4 và 56/43, 7/4 và 117/113) giữa việc chuyển một phôi 0PN và một phôi 2PN hoặc chuyển hai phôi 0PN và hai phôi 2PN là không đáng kể.
Kết quả lâm sàng của chuyển phôi nang trữ 0PN ngày 5 hoặc ngày 6
Những phôi nang 0PN có tốc độ phát triển nhanh cho thấy tiềm năng phát triển ưu thế hơn những phôi còn lại. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa phôi ngày 5 và ngày 6 là không đáng kể khi so sánh về tỉ lệ thai lâm sàng (47,1% và 54,8%), tỉ lệ làm tổ (37,5% và 46,3%), tỉ lệ trẻ sinh sống (35,3% và 45,2%).
Kết luận
Trong các chu kì thụ tinh trong ống nghiệm, những phôi phát triển từ hợp tử 0PN có nhiều phôi bào vào ngày 3 có tiềm năng phát triển hơn những phôi còn lại. Việc lựa chọn sử dụng những phôi nang 0PN thông qua đánh giá về mặt hình thái có thể đạt được kết quả trẻ sinh sống ở mức chấp nhận được. Ngoài ra, thời gian để phôi đạt đến giai đoạn phôi nang (ngày 5 hoặc ngày 6) không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng.
Lược dịch từ: Fu, L., Zhou, W. and Li, Y., 2021. Development and frozen-thawed transfer of non-pronuclear zygotes-derived embryos in IVF cycles. European Journal of Obstetrics & Gynecology and Reproductive Biology, 264, pp.206-211.
Từ khóa: Khả năng phát triển và kết quả chuyển phôi trữ những phôi từ hợp tử 0PN ở những chu kì IVF cổ điển
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chích ngừa vắc-xin SARS-CoV-2 bất hoạt không ảnh hưởng kết quả thụ tinh trong ống nghiệm: Một nghiên cứu sử dụng phương pháp đánh giá ghép cặp dựa trên điểm xu hướng (Propensity Score-Matched Study) - Ngày đăng: 07-03-2022
Mối liên quan giữa nồng độ chemerin trong huyết thanh và gãy xương do loãng xương với phụ nữ lớn tuổi tại Trung Quốc - Ngày đăng: 07-03-2022
Tiêm huyết tương giàu tiểu cầu cải thiện độ dày và đáp ứng NMTC - Ngày đăng: 07-03-2022
Ảnh hưởng của phẫu thuật giảm béo đối với sức khỏe của phụ nữ mang thai - Ngày đăng: 25-02-2022
Nghiên cứu hồi cứu: phân tích kết quả IVF/ICSI ở phụ nữ hiếm muộn có tiền sử ung thư tuyến giáp - Ngày đăng: 25-02-2022
TỔNG QUAN CÁC KHÍA CẠNH VỀ ĐỘNG CƠ THÚC ĐẨY, YẾU TỐ ĐI ĐẾN QUYẾT ĐỊNH, THÁI ĐỘ VÀ TRẢI NGHIỆM CỦA BỆNH NHÂN KHI THỰC HIỆN PGT - Ngày đăng: 25-02-2022
Hiệu quả và độ an toàn của papaverine trong việc tăng cường khả năng di động của tinh trùng người - Ngày đăng: 25-02-2022
Kết quả lâm sàng các trường hợp rescue ICSI tại các thời điểm khác nhau sau khi thực hiện IVF cổ điển - Ngày đăng: 25-02-2022
Bổ trợ công cụ đánh giá hình thái phôi truyền thống bằng phần mềm EEVATM giúp cải thiện kết quả ở các chu kì ttton chuyển phôi giai đoạn ngày 3: một phân tích hồi cứu - Ngày đăng: 15-02-2022
Nuôi phôi dài ngày có phải là chiến lược hiệu quả cho nhóm phụ nữ lớn tuổi? - Ngày đăng: 15-02-2022
Tổng quan các phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản ở nam giới - Ngày đăng: 15-02-2022
Mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân điều trị hiếm muộn trong đại dịch COVID-19 - Ngày đăng: 15-02-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK