Tin tức
on Friday 25-02-2022 8:40am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Quỳnh Như- IVFMD Buôn Ma Thuột
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) được phát triển như một kỹ thuật để giúp các cặp vợ chồng bị vô sinh do yếu tố nam, chẳng hạn như tinh trùng ít (oligozoospermia), tinh trùng yếu (asthenozoospermia), hoặc không tinh trùng (azoospermia). Với những thành công mang lại, kỹ thuật ICSI đã trở nên thường quy trong hầu hết các trung tâm hỗ trợ sinh sản trên khắp thế giới. Kỹ thuật ICSI không chỉ được chỉ định cho những bệnh nhân bị yếu tố nam nặng mà còn cho những trường hợp thất bại thụ tinh. Việc thất bại thụ tinh đôi khi xảy ra trong các chu kỳ thụ tinh ống nghiệm cổ điển và tỷ lệ thất bại thụ tinh hoàn toàn đã được ghi nhận trong khoảng từ 4% –16%. Để cứu vãn sự thất bại thụ tinh, việc thực hiện ICSI cho các noãn 1 ngày tuổi chưa được thụ tinh, được gọi là rescue-ICSI (r-ICSI), thường được đề xuất . Tuy nhiên, theo các nghiên cứu trước đây, kết quả của r-ICSI không đạt như mong đợi và dẫn đến tỷ lệ mang thai lâm sàng thấp. Việc sử dụng noãn đã 1 ngày tuổi có thể gặp phải vấn đề về sự già hóa của noãn, điều này có thể là nguyên nhân làm tăng bất thường di truyền tế bào và khiến tỷ lệ thụ tinh thấp hơn. Chính vì những lý do đó, r-ICSI được đề xuất thực hiện sớm hơn cùng ngày với ngày chọc hút noãn.
Tuy nhiên, có một số lo ngại liên quan đến r-ICSI sớm. Ví dụ, thực hiện r-ICSI sớm trên các tế bào noãn chưa hình thành tiền nhân có thể dẫn đến đa thụ tinh, trong hầu hết các trường hợp, kết quả là hình thành hợp tử ba nhân (3PN). Nagy và cộng sự (1994) đã báo cáo rằng 22% noãn giải phóng thể cực thứ hai của chúng trong vòng 2-4 giờ và 66% giải phóng sau 4 giờ. Do đó, r-ICSI sớm có thể gây nhầm lẫn giữa các noãn thất bại thụ tinh và những noãn giải phóng thể cực thứ 2 muộn. Tương tự, việc thể cực thứ nhất phân mảnh gây khó khăn cho việc phân biệt thể cực thứ hai khi r-ICSI. R-ICSI trên các tế bào noãn này sẽ dẫn đến hình thành các hợp tử 3PN. Tóm lại, việc chỉ định r-ICSI vào thời điểm muộn hơn có thể dẫn đến sự già đi của noãn. Ngược lại, r-ICSI ở thời điểm sớm hơn có thể dẫn đến hợp tử 3PN. Do đó, thời gian tối ưu cho r-ICSI vẫn còn chưa rõ ràng. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã thực hiện phân tích hồi cứu kết quả của r-ICSI để tìm ra chiến lược tối ưu trong việc thực hiện r-ICSI.
Nghiên cứu thực hiện trên 5.156 chu kỳ thực hiện IVF cổ điển (47.785 noãn). Sự thụ tinh được xác nhận bằng sự xuất hiện của thể cực thứ hai sau 4 và 6h từ lúc đồng nuôi cấy tinh trùng và noãn. Nếu sau 6h tỷ lệ thụ tinh là 30% hoặc ít hơn, sẽ tiến hành r-ICSI đối với noãn không có thể cực thứ hai (nhóm r-ICSI). Sự thụ tinh được đánh giá sau 20h kể từ khi thụ tinh, và quá trình thụ tinh bình thường được định nghĩa là sự xuất hiện 2 tiền nhân (2PN). Phôi được đánh giá hình thái ở giai đoạn phôi phân chia (ngày 2) và phôi nang (ngày 5,6).
Trong tổng số 5.156 chu kỳ, 4.419 chu kỳ (85,7%) được xác định có thụ tinh trên 30% sau 4 giờ đồng nuôi cấy (nhóm 4 giờ ). Trong số 737 chu kỳ còn lại, 512 chu kỳ thụ tinh trên 30% sau 6 giờ (nhóm 6 giờ ). R-ICSI được thực hiện trong 225 (4,4%) trên tổng số chu kỳ IVF.
Nghiên cứu ghi nhận một số kết quả sau: Tỷ lệ thụ tinh 2PN ở cả 3 nhóm (4 giờ, 6 giờ và r-ICSI) lần lượt là 70,7%, 51,3%, and 58,0%. Tỷ lệ hình thành phôi nang là 62,8%, 53,4% và 42,9% đã được báo cáo cho các nhóm 4 giờ , 6 giờ và r-ICSI. Tỷ lệ hình thành phôi nang cao nhất ở hợp tử 2PN trong cả 3 nhóm (lần lượt là 66,4%, 63,9% và 52,0%). Khi so sánh hợp tử 0PN, tỷ lệ hình thành phôi nang ở nhóm 4 giờ (43,8%) cao hơn đáng kể so với các nhóm khác (10,6% và 5,9%). Tương tự, tỷ lệ hình thành phôi nang ở phôi 1PN ở nhóm 4 giờ cao hơn so với hai nhóm còn lại. Kết quả cho thấy thực hiện r-ICSI sau 6 giờ đồng nuôi cấy có thể là giải pháp cho những trường hợp thất bại thụ tinh trong IVF. Nghiên cứu cũng gặp phải hạn chế như chỉ khảo sát kết quả r-icsi cho trường hợp thất bại thụ tinh sau 6 giờ, không có dữ liệu về r-icsi ở những thời điểm khác nhau.
Tóm lại, r-ICSI có hiệu quả trong việc cứu vãn tình trạng thất bại thụ tinh trong IVF. Việc xác nhận tình trạng thụ tinh sau 4 giờ sau khi đồng nuôi cấy tinh trùng và noãn có thể làm sai lệch nhận định trong trường hợp thể cực 2 xuất hiện muộn, có thể dẫn đến hợp tử 3PN nếu áp dụng r-ICSI tại thời điểm này. Ngược lại, tế bào noãn 1 thể cực sau 6 giờ có ít khả năng thụ tinh. Do đó, r-ICSI nên được thực hiện sau 6 giờ kể từ khi đồng nuôi cấy noãn và tinh trùng.
Nguồn :Clinical Outcomes of Rescue Intracytoplasmic Sperm Injection at Different Timings Following In Vitro Fertilization. Shiraiwa et al (2021). Journal of Reproduction & Infertility, Volume 22, Issue 4, 251.
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) được phát triển như một kỹ thuật để giúp các cặp vợ chồng bị vô sinh do yếu tố nam, chẳng hạn như tinh trùng ít (oligozoospermia), tinh trùng yếu (asthenozoospermia), hoặc không tinh trùng (azoospermia). Với những thành công mang lại, kỹ thuật ICSI đã trở nên thường quy trong hầu hết các trung tâm hỗ trợ sinh sản trên khắp thế giới. Kỹ thuật ICSI không chỉ được chỉ định cho những bệnh nhân bị yếu tố nam nặng mà còn cho những trường hợp thất bại thụ tinh. Việc thất bại thụ tinh đôi khi xảy ra trong các chu kỳ thụ tinh ống nghiệm cổ điển và tỷ lệ thất bại thụ tinh hoàn toàn đã được ghi nhận trong khoảng từ 4% –16%. Để cứu vãn sự thất bại thụ tinh, việc thực hiện ICSI cho các noãn 1 ngày tuổi chưa được thụ tinh, được gọi là rescue-ICSI (r-ICSI), thường được đề xuất . Tuy nhiên, theo các nghiên cứu trước đây, kết quả của r-ICSI không đạt như mong đợi và dẫn đến tỷ lệ mang thai lâm sàng thấp. Việc sử dụng noãn đã 1 ngày tuổi có thể gặp phải vấn đề về sự già hóa của noãn, điều này có thể là nguyên nhân làm tăng bất thường di truyền tế bào và khiến tỷ lệ thụ tinh thấp hơn. Chính vì những lý do đó, r-ICSI được đề xuất thực hiện sớm hơn cùng ngày với ngày chọc hút noãn.
Tuy nhiên, có một số lo ngại liên quan đến r-ICSI sớm. Ví dụ, thực hiện r-ICSI sớm trên các tế bào noãn chưa hình thành tiền nhân có thể dẫn đến đa thụ tinh, trong hầu hết các trường hợp, kết quả là hình thành hợp tử ba nhân (3PN). Nagy và cộng sự (1994) đã báo cáo rằng 22% noãn giải phóng thể cực thứ hai của chúng trong vòng 2-4 giờ và 66% giải phóng sau 4 giờ. Do đó, r-ICSI sớm có thể gây nhầm lẫn giữa các noãn thất bại thụ tinh và những noãn giải phóng thể cực thứ 2 muộn. Tương tự, việc thể cực thứ nhất phân mảnh gây khó khăn cho việc phân biệt thể cực thứ hai khi r-ICSI. R-ICSI trên các tế bào noãn này sẽ dẫn đến hình thành các hợp tử 3PN. Tóm lại, việc chỉ định r-ICSI vào thời điểm muộn hơn có thể dẫn đến sự già đi của noãn. Ngược lại, r-ICSI ở thời điểm sớm hơn có thể dẫn đến hợp tử 3PN. Do đó, thời gian tối ưu cho r-ICSI vẫn còn chưa rõ ràng. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã thực hiện phân tích hồi cứu kết quả của r-ICSI để tìm ra chiến lược tối ưu trong việc thực hiện r-ICSI.
Nghiên cứu thực hiện trên 5.156 chu kỳ thực hiện IVF cổ điển (47.785 noãn). Sự thụ tinh được xác nhận bằng sự xuất hiện của thể cực thứ hai sau 4 và 6h từ lúc đồng nuôi cấy tinh trùng và noãn. Nếu sau 6h tỷ lệ thụ tinh là 30% hoặc ít hơn, sẽ tiến hành r-ICSI đối với noãn không có thể cực thứ hai (nhóm r-ICSI). Sự thụ tinh được đánh giá sau 20h kể từ khi thụ tinh, và quá trình thụ tinh bình thường được định nghĩa là sự xuất hiện 2 tiền nhân (2PN). Phôi được đánh giá hình thái ở giai đoạn phôi phân chia (ngày 2) và phôi nang (ngày 5,6).
Trong tổng số 5.156 chu kỳ, 4.419 chu kỳ (85,7%) được xác định có thụ tinh trên 30% sau 4 giờ đồng nuôi cấy (nhóm 4 giờ ). Trong số 737 chu kỳ còn lại, 512 chu kỳ thụ tinh trên 30% sau 6 giờ (nhóm 6 giờ ). R-ICSI được thực hiện trong 225 (4,4%) trên tổng số chu kỳ IVF.
Nghiên cứu ghi nhận một số kết quả sau: Tỷ lệ thụ tinh 2PN ở cả 3 nhóm (4 giờ, 6 giờ và r-ICSI) lần lượt là 70,7%, 51,3%, and 58,0%. Tỷ lệ hình thành phôi nang là 62,8%, 53,4% và 42,9% đã được báo cáo cho các nhóm 4 giờ , 6 giờ và r-ICSI. Tỷ lệ hình thành phôi nang cao nhất ở hợp tử 2PN trong cả 3 nhóm (lần lượt là 66,4%, 63,9% và 52,0%). Khi so sánh hợp tử 0PN, tỷ lệ hình thành phôi nang ở nhóm 4 giờ (43,8%) cao hơn đáng kể so với các nhóm khác (10,6% và 5,9%). Tương tự, tỷ lệ hình thành phôi nang ở phôi 1PN ở nhóm 4 giờ cao hơn so với hai nhóm còn lại. Kết quả cho thấy thực hiện r-ICSI sau 6 giờ đồng nuôi cấy có thể là giải pháp cho những trường hợp thất bại thụ tinh trong IVF. Nghiên cứu cũng gặp phải hạn chế như chỉ khảo sát kết quả r-icsi cho trường hợp thất bại thụ tinh sau 6 giờ, không có dữ liệu về r-icsi ở những thời điểm khác nhau.
Tóm lại, r-ICSI có hiệu quả trong việc cứu vãn tình trạng thất bại thụ tinh trong IVF. Việc xác nhận tình trạng thụ tinh sau 4 giờ sau khi đồng nuôi cấy tinh trùng và noãn có thể làm sai lệch nhận định trong trường hợp thể cực 2 xuất hiện muộn, có thể dẫn đến hợp tử 3PN nếu áp dụng r-ICSI tại thời điểm này. Ngược lại, tế bào noãn 1 thể cực sau 6 giờ có ít khả năng thụ tinh. Do đó, r-ICSI nên được thực hiện sau 6 giờ kể từ khi đồng nuôi cấy noãn và tinh trùng.
Nguồn :Clinical Outcomes of Rescue Intracytoplasmic Sperm Injection at Different Timings Following In Vitro Fertilization. Shiraiwa et al (2021). Journal of Reproduction & Infertility, Volume 22, Issue 4, 251.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Bổ trợ công cụ đánh giá hình thái phôi truyền thống bằng phần mềm EEVATM giúp cải thiện kết quả ở các chu kì ttton chuyển phôi giai đoạn ngày 3: một phân tích hồi cứu - Ngày đăng: 15-02-2022
Nuôi phôi dài ngày có phải là chiến lược hiệu quả cho nhóm phụ nữ lớn tuổi? - Ngày đăng: 15-02-2022
Tổng quan các phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản ở nam giới - Ngày đăng: 15-02-2022
Mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân điều trị hiếm muộn trong đại dịch COVID-19 - Ngày đăng: 15-02-2022
Trẻ ra đời từ bảo tồn sinh sản bằng phương pháp đông lạnh mô buồng trứng kết hợp với IVM - Ngày đăng: 13-02-2022
Tính đồng nhất về kết quả phân tích nhiễm sắc thể giữa phôi nang chỉ sinh thiết các tế bào lá nuôi phôi (TE) so với thực hiện sinh thiết toàn bộ phôi nang - Ngày đăng: 13-02-2022
TỈ LỆ THÀNH CÔNG TRONG CHU KỲ IVF KÍCH TRỨNG TỐI THIỂU (MINI-IVF) CHỈ VỚI CLOMIPHENE CITRATE - Ngày đăng: 13-02-2022
Biến chứng ở mẹ và trẻ sơ sinh sau khi chuyển phôi nang đông lạnh ở phác đồ sử dụng liệu pháp hormone thay thế so với chu kỳ tự nhiên - Ngày đăng: 13-02-2022
Giá trị tiên lượng của chất lượng noãn trong kết cục của ART: một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 13-02-2022
Tỷ lệ dị tật tim bẩm sinh trong thai kỳ sau hỗ trợ sinh sản: Một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 09-02-2022
Tâm lý bệnh nhân điều trị hiếm muộn bị gián đoạn hoặc trì hoãn do đại dịch COVID- 19 - Ngày đăng: 30-01-2022
Tác động của hla trong chất nhầy cổ tử cung tới chức năng của tinh trùng - Ngày đăng: 30-01-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK