Tin tức
on Sunday 13-02-2022 9:21pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Quỳnh Như - IVFMD Buôn Ma Thuột
Trong công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART), xét nghiệm di truyền lệch bội tiền làm tổ (PGT-A) trên phôi nang được sử dụng rộng rãi tại nhiều trung tâm trên thế giới. Kỹ thuật này được chứng minh là giúp cải thiện tỷ lệ làm tổ và giảm tỷ lệ sẩy thai bằng cách chọn lọc những phôi nguyên bội trước khi chuyển cho bệnh nhân. Kỹ thuật sinh thiết phôi là một kỹ thuật xâm lấn, do đó việc cân bằng giữa số lượng tế bào TE thu nhận và tính đại diện của chúng cho phôi là một trong các vấn đề rất được quan tâm. Trong báo cáo của Guzman và cộng sự, tác giả chỉ ra rằng không nên lấy quá 5 tế bào TE để PGT-A, vì việc lấy nhiều tế bào có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển phôi nang, làm tăng nguy cơ thất bại làm tổ và sẩy thai. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng khoảng 5 tế bào TE được sinh thiết là đủ để thực hiện phân tích tình trạng nhiễm sắc thể. Tuy nhiên giai đoạn phôi nang có khoảng 300 tế bào do đó việc chỉ lấy 5 tế bào TE làm đại diện cho tình trạng nhiễm sắc thể của toàn bộ phôi nang làm dấy lên sự lo ngại về tính chính xác của kết quả. Như đã biết, các tế bào TE sẽ biệt hóa thành các mô nhau thai sau khi làm tổ, và quan trọng nhất là tình trạng nhiễm sắc thể của khối tế bào ICM vì đây chính là phần biệt hóa thành thai nhi. Tình trạng nhiễm sắc thể của TE và ICM đã được phân tích riêng biệt và so sánh trong một số nghiên cứu nhưng không có nghiên cứu nào trong số này chỉ ra mối quan hệ giữa tình trạng nhiễm sắc thể của các mẫu sinh thiết TE và nhóm tế bào ICM. Điều quan trọng là các thủ thuật xâm lấn để xác định tình trạng nhiễm sắc thể của ICM không khả thi trong thực hành lâm sàng. Việc lấy tế bào ICM để phân tích có thể dẫn đến tổn thương phôi lớn hơn nhiều và ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi nhiều hơn so với sinh thiết TE. Do đó, tình trạng nhiễm sắc thể của toàn bộ phôi được đánh giá gián tiếp dựa trên những phát hiện cơ bản về tình trạng nhiễm sắc thể của các tế bào TE được sinh thiết. Hiệp hội Quốc tế Chẩn đoán Di truyền Tiền làm tổ (PGDIS) đã đưa ra hướng dẫn về việc sử dụng PGT-A trong thực hành lâm sàng để chẩn đoán phôi bào khảm. Tuy nhiên, các hướng dẫn này đã quy định các tiêu chí sử dụng PGT-A như một công cụ sàng lọc phôi và không đảm bảo sự nhất quán giữa tình trạng nhiễm sắc thể của các mẫu sinh thiết TE và của toàn bộ phôi.
Mặc dù gần đây có nhiều báo cáo về PGT-A sử dụng DNA tự do (cfDNA) từ môi trường nuôi cấy phôi, sự đồng nhất giữa tình trạng nhiễm sắc thể phôi nang và nguồn gốc của cfDNA còn gây nhiều tranh cãi. Hiện tại, PGT-A được triển khai trong thực hành lâm sàng là sử dụng các mẫu sinh thiết TE.
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp giải trình NGS để phân tích mối quan hệ giữa tình trạng nhiễm sắc thể của khoảng 5 tế bào TE được sinh thiết và các tế bào phôi nang từ 29 phôi nang đông lạnh và rã đông. Đặc biệt, tác giả so sánh dữ liệu nhiễm sắc thể thu được từ các tế bào TE được sinh thiết và các tế bào phôi nang còn lại để xác định tính nhất quán và mối liên hệ (nếu có) của nhiễm sắc thể ở 2 nhóm tế bào này. Nghiên cứu thực hiện trên 29 phôi nang thu được từ 11 phụ nữ. Các phôi nang đã được trữ lạnh từ năm 2005 đến năm 2011, các bệnh nhân đồng ý hiến phôi cho nghiên cứu khoa học. Chất lượng các phôi lúc trữ lạnh là 3AA (n = 8), 3BB (n = 2), 4AA (n = 13), 4AB (n = 1), 4BA (n = 1), 4BB (n = 2) và 6AA (n = 2). Tuổi trung bình của những bệnh nhân hiến tặng phôi nang để đông lạnh là 34,7 ± 2,7 tuổi. Tất cả các phôi được sử dụng đều trải qua quá trình thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (cIVF). Các mẫu sinh thiết và phôi nang còn lại được xử lý bằng bộ kit VeriSeq PGS, và các trạng thái nhiễm sắc thể được so sánh bằng giải trình tự NGS.
Sự khác biệt được quan sát thấy trong tình trạng nhiễm sắc thể của 11 trong số 29 phôi nang giữa TE được sinh thiết và khối tế bào ICM. Sự giống nhau về kết quả được quan sát thấy ở 11 trong số 12 phôi nang được phân loại là nguyên bội và ở 7 trong số 17 phôi nang được phân loại là lệch bội. 100% trường hợp đồng nhất kết quả giữa TE và ICM (7/7) trong các trường hợp được chẩn đoán là lệch bội không mang thể khảm. Tuy nhiên, sự khác biệt đã được quan sát thấy trong tất cả 10 trường hợp có biểu hiện khảm hoặc bất thường một phần nhiễm sắc thể.
Phân tích tình trạng nhiễm sắc thể dựa trên sinh thiết TE không phản ánh chính xác tình trạng nhiễm sắc thể của toàn bộ phôi nang. Tình trạng nhiễm sắc thể thường giống nhau giữa TE và các phôi bào còn lại trong các trường hợp được chẩn đoán là nguyên bội hoặc lệch bội không có thể khảm. Tuy nhiên, phôi nang khảm và những phôi có kiểu sắp xếp lại cấu trúc khác có nguy cơ khác biệt cao hơn, cần phải thận trọng trong quá trình lựa chọn phôi.
TLTK: Takahashi H, Takahashi K, Goto M, Hirakawa T, Hasegawa H, Shitara A, Iwasawa T, Togashi K, Makino K, Shirasawa H, Miura H, Sato W, Kumazawa Y, Terada Y. Consistency between chromosomal status analysis of biopsied human blastocyst trophectoderm cells and whole blastocyst cells. Reprod Med Biol. 2021 Jun 23;20(4):444-450. doi: 10.1002/rmb2.12400.
Trong công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART), xét nghiệm di truyền lệch bội tiền làm tổ (PGT-A) trên phôi nang được sử dụng rộng rãi tại nhiều trung tâm trên thế giới. Kỹ thuật này được chứng minh là giúp cải thiện tỷ lệ làm tổ và giảm tỷ lệ sẩy thai bằng cách chọn lọc những phôi nguyên bội trước khi chuyển cho bệnh nhân. Kỹ thuật sinh thiết phôi là một kỹ thuật xâm lấn, do đó việc cân bằng giữa số lượng tế bào TE thu nhận và tính đại diện của chúng cho phôi là một trong các vấn đề rất được quan tâm. Trong báo cáo của Guzman và cộng sự, tác giả chỉ ra rằng không nên lấy quá 5 tế bào TE để PGT-A, vì việc lấy nhiều tế bào có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển phôi nang, làm tăng nguy cơ thất bại làm tổ và sẩy thai. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng khoảng 5 tế bào TE được sinh thiết là đủ để thực hiện phân tích tình trạng nhiễm sắc thể. Tuy nhiên giai đoạn phôi nang có khoảng 300 tế bào do đó việc chỉ lấy 5 tế bào TE làm đại diện cho tình trạng nhiễm sắc thể của toàn bộ phôi nang làm dấy lên sự lo ngại về tính chính xác của kết quả. Như đã biết, các tế bào TE sẽ biệt hóa thành các mô nhau thai sau khi làm tổ, và quan trọng nhất là tình trạng nhiễm sắc thể của khối tế bào ICM vì đây chính là phần biệt hóa thành thai nhi. Tình trạng nhiễm sắc thể của TE và ICM đã được phân tích riêng biệt và so sánh trong một số nghiên cứu nhưng không có nghiên cứu nào trong số này chỉ ra mối quan hệ giữa tình trạng nhiễm sắc thể của các mẫu sinh thiết TE và nhóm tế bào ICM. Điều quan trọng là các thủ thuật xâm lấn để xác định tình trạng nhiễm sắc thể của ICM không khả thi trong thực hành lâm sàng. Việc lấy tế bào ICM để phân tích có thể dẫn đến tổn thương phôi lớn hơn nhiều và ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi nhiều hơn so với sinh thiết TE. Do đó, tình trạng nhiễm sắc thể của toàn bộ phôi được đánh giá gián tiếp dựa trên những phát hiện cơ bản về tình trạng nhiễm sắc thể của các tế bào TE được sinh thiết. Hiệp hội Quốc tế Chẩn đoán Di truyền Tiền làm tổ (PGDIS) đã đưa ra hướng dẫn về việc sử dụng PGT-A trong thực hành lâm sàng để chẩn đoán phôi bào khảm. Tuy nhiên, các hướng dẫn này đã quy định các tiêu chí sử dụng PGT-A như một công cụ sàng lọc phôi và không đảm bảo sự nhất quán giữa tình trạng nhiễm sắc thể của các mẫu sinh thiết TE và của toàn bộ phôi.
Mặc dù gần đây có nhiều báo cáo về PGT-A sử dụng DNA tự do (cfDNA) từ môi trường nuôi cấy phôi, sự đồng nhất giữa tình trạng nhiễm sắc thể phôi nang và nguồn gốc của cfDNA còn gây nhiều tranh cãi. Hiện tại, PGT-A được triển khai trong thực hành lâm sàng là sử dụng các mẫu sinh thiết TE.
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp giải trình NGS để phân tích mối quan hệ giữa tình trạng nhiễm sắc thể của khoảng 5 tế bào TE được sinh thiết và các tế bào phôi nang từ 29 phôi nang đông lạnh và rã đông. Đặc biệt, tác giả so sánh dữ liệu nhiễm sắc thể thu được từ các tế bào TE được sinh thiết và các tế bào phôi nang còn lại để xác định tính nhất quán và mối liên hệ (nếu có) của nhiễm sắc thể ở 2 nhóm tế bào này. Nghiên cứu thực hiện trên 29 phôi nang thu được từ 11 phụ nữ. Các phôi nang đã được trữ lạnh từ năm 2005 đến năm 2011, các bệnh nhân đồng ý hiến phôi cho nghiên cứu khoa học. Chất lượng các phôi lúc trữ lạnh là 3AA (n = 8), 3BB (n = 2), 4AA (n = 13), 4AB (n = 1), 4BA (n = 1), 4BB (n = 2) và 6AA (n = 2). Tuổi trung bình của những bệnh nhân hiến tặng phôi nang để đông lạnh là 34,7 ± 2,7 tuổi. Tất cả các phôi được sử dụng đều trải qua quá trình thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (cIVF). Các mẫu sinh thiết và phôi nang còn lại được xử lý bằng bộ kit VeriSeq PGS, và các trạng thái nhiễm sắc thể được so sánh bằng giải trình tự NGS.
Sự khác biệt được quan sát thấy trong tình trạng nhiễm sắc thể của 11 trong số 29 phôi nang giữa TE được sinh thiết và khối tế bào ICM. Sự giống nhau về kết quả được quan sát thấy ở 11 trong số 12 phôi nang được phân loại là nguyên bội và ở 7 trong số 17 phôi nang được phân loại là lệch bội. 100% trường hợp đồng nhất kết quả giữa TE và ICM (7/7) trong các trường hợp được chẩn đoán là lệch bội không mang thể khảm. Tuy nhiên, sự khác biệt đã được quan sát thấy trong tất cả 10 trường hợp có biểu hiện khảm hoặc bất thường một phần nhiễm sắc thể.
Phân tích tình trạng nhiễm sắc thể dựa trên sinh thiết TE không phản ánh chính xác tình trạng nhiễm sắc thể của toàn bộ phôi nang. Tình trạng nhiễm sắc thể thường giống nhau giữa TE và các phôi bào còn lại trong các trường hợp được chẩn đoán là nguyên bội hoặc lệch bội không có thể khảm. Tuy nhiên, phôi nang khảm và những phôi có kiểu sắp xếp lại cấu trúc khác có nguy cơ khác biệt cao hơn, cần phải thận trọng trong quá trình lựa chọn phôi.
TLTK: Takahashi H, Takahashi K, Goto M, Hirakawa T, Hasegawa H, Shitara A, Iwasawa T, Togashi K, Makino K, Shirasawa H, Miura H, Sato W, Kumazawa Y, Terada Y. Consistency between chromosomal status analysis of biopsied human blastocyst trophectoderm cells and whole blastocyst cells. Reprod Med Biol. 2021 Jun 23;20(4):444-450. doi: 10.1002/rmb2.12400.
Các tin khác cùng chuyên mục:
TỈ LỆ THÀNH CÔNG TRONG CHU KỲ IVF KÍCH TRỨNG TỐI THIỂU (MINI-IVF) CHỈ VỚI CLOMIPHENE CITRATE - Ngày đăng: 13-02-2022
Biến chứng ở mẹ và trẻ sơ sinh sau khi chuyển phôi nang đông lạnh ở phác đồ sử dụng liệu pháp hormone thay thế so với chu kỳ tự nhiên - Ngày đăng: 13-02-2022
Giá trị tiên lượng của chất lượng noãn trong kết cục của ART: một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 13-02-2022
Tỷ lệ dị tật tim bẩm sinh trong thai kỳ sau hỗ trợ sinh sản: Một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 09-02-2022
Tâm lý bệnh nhân điều trị hiếm muộn bị gián đoạn hoặc trì hoãn do đại dịch COVID- 19 - Ngày đăng: 30-01-2022
Tác động của hla trong chất nhầy cổ tử cung tới chức năng của tinh trùng - Ngày đăng: 30-01-2022
Cấy ghép tử cung và thụ tinh trong ống nghiệm cho bệnh nhân vô sinh do yếu tố tử cung bẩm sinh hoặc mắc phải: đánh giá kết quả ở 52 trường hợp đầu tiên - Ngày đăng: 30-01-2022
Khảo sát về kinh nghiệm bảo quản lạnh tinh trùng dài hạn ở bệnh nhân ung thư và không ung thư: Việc sử dụng và kết quả sinh sản của một đoàn hệ lớn đơn trung tâm - Ngày đăng: 27-01-2022
Sự biểu hiện của miRNA trên tế bào cumulus khi bổ sung LH vào phác đồ kích thích buồng trứng: một nghiên cứu sơ bộ - Ngày đăng: 25-01-2022
Môi trường chuyển phôi giàu axit hyaluronic trong chuyển phôi đông lạnh: một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng - Ngày đăng: 24-01-2022
Đặc tính và so sánh các loại dầu thương mại được sử dụng trong nuôi cấy phôi ở người - Ngày đăng: 20-08-2024
Đặc điểm của mô hình trí tuệ nhân tạo xếp loại phôi nang thông qua hình ảnh tĩnh - Ngày đăng: 24-01-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK