Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 22-03-2022 2:22pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thanh Chi – IVFMD Tân Bình
 
Sẩy thai liên tiếp (recurrent pregnancy loss - RPL) là tình trạng bệnh nhân sẩy thai liên tục hai hay nhiều lần trước tuần 24 của thai kỳ. Tình trạng này ảnh hưởng đến 2-3% các cặp vợ chồng đang trong độ tuổi sinh sản. Theo thời gian, nhiều yếu tố nguy cơ gây RPL dần được xác định, đồng thời nhiều khuyến cáo về phương pháp chẩn đoán RPL cũng được công bố như sàng lọc dị tật ở tử cung, bệnh huyết khối, bất thường tuyến giáp hay chuyển đoạn nhiễm sắc thể (NST) của cha mẹ. Mặc dù vậy, có đến 60-70% trường hợp không thể xác định nguyên nhân. Trên thực tế, các cặp vợ chồng mắc RPL phải đối mặt với chứng trầm cảm và lo lắng quá mức. Vì vậy, việc cung cấp dịch vụ chăm sóc tích cực như tư vấn tâm lý trong thời kỳ đầu mang thai được cho là vô cùng ý nghĩa. Việc hỗ trợ này sẽ càng ý nghĩa hơn khi có thể đưa ra những tiên lượng về khả năng mang thai trong tương lai.
 
Thật vậy, một trong những câu hỏi phổ biến của các cặp vợ chồng mắc RPL là cơ hội mang thai thành công trong tương lai là bao nhiêu? Ngay cả khi các cơ chế căn nguyên chưa được giải thích đầy đủ, nhiều mô hình dự đoán đã được phát triển và có khả năng ước tính khả năng mang thai trong tương lai. Hiện nay, có hai mô hình dự đoán được khuyến nghị bởi Hiệp hội sinh sản và phôi thai người Châu Âu (European Society of Human Reproduction and Embryology - ESHRE. Cả hai mô hình đều sử dụng hai yếu tố bao gồm số lần sẩy thai trước đó và tuổi mẹ. Nghiên cứu của Brigham và cộng sự (1999) dự đoán khả năng mang thai ở lần tiếp theo với thai nhi sống sót trên 24 tuần, trong khi đó Lund và cộng sự (2012) dự đoán tỷ lệ mang thai thành công ở thời điểm 5, 10 và 15 năm sau đó. Tuy nhiên, cần lưu ý một số hạn chế đáng kể khi sử dụng các mô hình dự đoán này.
 
Đầu tiên, cả hai mô hình này đều không mô tả biện pháp thực hiện cũng như quy trình đánh giá nên hiệu suất dự đoán vẫn chưa được xác định. Thứ hai, với sự thay đổi về định nghĩa và thực hành lâm sàng chẩn đoán RPL ngày nay, thì các mô hình này dường như không còn phù hợp vì chúng được phát triển cách đây 21 và 9 năm trước. Thêm vào đó là yếu tố dự đoán của hai nghiên cứu, mặc dù không thể phủ nhận vai trò quan trọng của số lần sẩy thai trước đó và tuổi mẹ, nhưng có thể việc đưa vào nhiều yếu tố khác sẽ giúp cải thiện độ chính xác của mô hình. Các yếu tố về lối sống như hút thuốc lá có liên quan đến việc sẩy thai trong nhiều nghiên cứu trước đây, do đó có thể ảnh hưởng đến kết quả mang thai trong tương lai. Hơn nữa, đã có nhiều bằng chứng cho thấy bên cạnh các đặc điểm đến từ người vợ thì các đặc điểm của người chồng cũng góp phần tái diễn tình trạng sẩy thai.
 
Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu xem liệu khả năng dự đoán tỷ lệ mang thai ở lần tiếp theo của các cặp vợ chồng mắc RPL không rõ nguyên nhân có thể được cải thiện khi tính đến các yếu tố dự đoán bổ sung khác hay không. Đây có lẽ là nghiên cứu đầu tiên đánh giá tiềm năng dự đoán khi kết hợp cả yếu tố đến từ nam và nữ.
 
Nghiên cứu đoàn hệ được thực hiện dựa trên dữ liệu bệnh nhân mắc RPL từ hai bệnh viện của Hà Lan (Erasmus MC, University Medical Center Rotterdam và Leiden University Medical Center) trong thời gian từ tháng 1 năm 2012 đến tháng 12 năm 2019. RPL được xác định khi các cặp vợ chồng có ít nhất 2 lần sẩy thai trước tuần 24 của thai kỳ. Tổng cộng 526 cặp vợ chồng mắc RPL không rõ nguyên nhân được tư vấn và theo dõi ít nhất 1 năm tham gia vào nghiên cứu. Mô hình tiên lượng cơ hội mang thai ở lần tiếp theo của các cặp vợ chồng này được ước tính bằng cách sử dụng quy trình chọn lọc ngược và xác nhận nội bộ bằng “bootstrapping”. Hiệu suất của mô hình được đánh giá về mặt hiệu chuẩn và sự khác biệt (diện tích dưới đường cong ROC).
 
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
  • Có một trường hợp mang thai trên 24 tuần trong 345/526 cặp vợ chồng mắc RPL không rõ nguyên nhân tiếp tục mang thai (66%). Ngoài ra, trong số 181 cặp vợ chồng còn lại (34%) không tiếp tục mang thai thì có 168 (93%) sẩy thai tự nhiên, 8 (4%) mang thai ngoài tử cung và 5 (3%) phải chấm dứt thai kỳ do bất thường thai nhi.
  • Các yếu tố dự đoán tiềm năng cho mô hình bao gồm số lần sẩy thai trước đó, tuổi của cha và mẹ, chỉ số cơ thể của cả cha và mẹ, tình trạng hút thuốc của cả hai người và các trường hợp áp dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) trước đó. Phân tích cho thấy diện tích hiệu chỉnh dưới đường cong ROC là 0,63 so với 0,57 khi chỉ sử dụng hai yếu tố được sử dụng trước đây là số lần sẩy thai trước đó và tuổi mẹ.
 
Tóm lại, bài nghiên cứu này chỉ ra rằng mô hình dự đoán cơ hội mang thai trên 24 tuần của các cặp vợ chồng mắc RPL trong tương lai trở nên chính xác hơn khi sử dụng các yếu tố bổ sung bên cạnh hai yếu tố quan trọng là tuổi mẹ và số lần sẩy thai trước đó. Các yếu tố bổ sung bao gồm các đặc điểm đến từ cả nam và nữ, ủng hộ cách tiếp cận vào cặp đôi thay vì chỉ tập trung vào nữ giới trong trường hợp RPL. Tuy nhiên, khả năng dự đoán của mô hình này vẫn còn hạn chế, vì vậy cần có thêm nhiều nghiên cứu để phát triển một mô hình có thể áp dụng trong thực hành lâm sàng.
 
Nguồn: Nadia A. du Fossé, Marie-Louise P. van der Hoorn, Rozemarijn de Koning, Annemarie G.M.G.J. Mulders, Jan M.M. van Lith, Saskia le Cessie, Eileen E.L.O. Lashley. Toward more accurate prediction of future pregnancy outcome in couples with unexplained recurrent pregnancy loss: taking both partners into account, Fertility and Sterility, Volume 117, Issue 1, 2022, Pages 144-152, ISSN 0015-0282, https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2021.08.037.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK