Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 25-12-2019 3:07pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Khánh Linh – IVFMD Phú Nhuận
 

 
Hiện có nhiều phác đồ kích thích buồng trứng làm thụ tinh trong ống nghiệm đang được thử nghiệm nhằm nhiều mục đích khác nhau như tối giản hoá quy trình điều trị, giảm số mũi tiêm thuốc cho bệnh nhân, tăng tính thân thiện của điều trị, hoặc tìm ra phác đồ phù hợp nhất cho từng đối tượng BN cụ thể, đặc biệt là nhóm BN lớn tuổi và nhóm BN đáp ứng kém với KTBT.
 
Việc phát hiện nang noãn có thể đáp ứng với sự kích thích của FSH vào bất kỳ thời điểm nào của chu kỳ kinh và sự áp dụng của phác đồ KTBT vào pha hoàng thể đã đưa đến một phát hiện mới là khả năng ức chế đỉnh LH sớm của progestin nội sinh. Từ đó, một số tác giả cũng đưa ra giả thuyết về khả năng ức chế đỉnh LH sớm của progestin ngoại sinh. Nếu progestin ngoại sinh cũng có khả năng ức chế đỉnh LH sớm và đem lại hiệu quả điều trị lâm sàng tốt, việc sử dụng progestin ngoại sinh uống có thể thay thế việc tiêm GnRH analogue trong các trường hợp có chỉ định trữ phôi toàn bộ ngay từ đầu, từ đó tăng tính thân thiện và giảm gánh nặng điều trị cho bệnh nhân, một trong những nguyên nhân thường khiến BN bỏ trị.

Yin-mei Chen và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu khảo sát kết cục của phác đồ sử dụng progestin để ức chế rụng trứng sớm (PPOS: progestin-primed ovarian stimulation protocol) ở những phụ nữ lớn tuổi (> 35 tuổi) từng thất bại với phác đồ dài GnRH agonist trước đó. Đây là một nghiên cứu tự đối chứng được thực hiện hồi cứu trên 104 bệnh nhân từng thất bại với phác đồ dài GnRH agonist (non-PPOS group) sau đó được điều trị với phác đồ PPOS (PPOS group) vào chu kỳ điều trị thứ hai từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2016 tại Trung tâm Y học Sinh sản, Renmin Hospital of Wuhan University.

Nhóm PPOS được sử dụng gonadotropin liều 150 đến 225 IU / ngày cùng với medroxyprogesterone acetate (MPA) 10 mg / ngày từ ngày 3 của chu kỳ kinh đến ngày tiêm hCG. Phôi tạo thành được trữ lạnh để chuyển phôi trữ vào chu kỳ kế tiếp. Kết cục chính bao gồm tỉ lệ thai lâm sàng sau khi chuyển phôi trữ ở nhóm PPOS và tỉ lệ phôi chất lượng tốt ở cả hai nhóm. Kết cục phụ bao gồm tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ sử dụng noãn và tỉ lệ huỷ chu kỳ.

Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về nồng độ FSH cơ bản, số nang thứ cấp, thời gian và tổng liều sử dụng gonadotropin, số noãn chọc hút, tỉ lệ ICSI, tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ huỷ chu kỳ giữa hai nhóm. Tuy nhiên, tỉ lệ sử dụng noãn và tỉ lệ phôi tốt ở nhóm PPOS cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân non-PPOS. Cuối tháng 4 năm 2017, có 62 chu kỳ chuyển phôi trữ được thực hiện ở nhóm PPOS. Tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ làm tổ lần lượt là 22,58% và 12,70%.

Kết quả nghiên cứu cho thấy phác đồ PPOS có thể cho kết cục thai lâm sàng tốt hơn thông qua việc cải thiện tỉ lệ sử dụng noãn và tỉ lệ phôi tốt ở những BN lớn tuổi từng thất bại TTTON trước đó. Cơ chế chưa rõ và cũng còn cần thêm rất nhiều nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của phác đồ này cũng như xác định nhóm BN thích hợp nhất có lợi ích khi áp dụng phác đồ này. Tuy nhiên, ở những BN đã có chỉ định trữ phôi toàn bộ ngay từ đầu, phác đồ này sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho BN nếu được chứng minh là có hiệu quả tương đương với các phác đồ đang được sử dụng phổ biến hiện nay.

Nguồn: Effect of Progestin-primed Ovarian Stimulation Protocol on Outcomes of Aged Infertile Women Who Failed to Get Pregnant in the First IVF/ ICSI Cycle: A Self-controlled Study. Yin-mei Chen et al. Current Medical Science 38(3):513-518, 2018.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK