Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 25-12-2019 12:21pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương

Thụ tinh trong ống nghiệm bao gồm quá trình kích thích buồng trứng, thu nhận noãn, tiêm tinh trùng vào bào tương noãn, sau đó chuyển phôi tươi và những phôi dư sẽ được trữ đông để chuyển trong chu kỳ sau. Tuy nhiên, gần đây có nhiều trường hợp được trữ đông tất cả phôi, sau đó thực hiện chuyển phôi trữ, quy trình này được gọi là IVF phân đoạn (segmentation). Những nghiên cứu gần đây cho thấy, IVF phân đoạn có thể làm tăng tỷ lệ trẻ sinh sống, giảm nguy cơ sinh non và cân nặng khi sinh thấp, nhưng tăng nguy cơ rối loạn tăng huyết áp thai kỳ, tuổi thai lớn (LGA) và tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Do đó, Andrew D. A. C. Smith và cộng sự tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của IVF phân đoạn với việc trữ đông tất cả phôi trước khi chuyển có làm tăng tỷ lệ trẻ sinh sống sau đó hay không.
Nghiên cứu đánh giá trên nhóm IVF có phân đoạn và không phân đoạn. IVF phân đoạn gồm kích thích buồng trứng, thu nhận noãn, trữ đông phôi, rã phôi và chuyển phôi trữ. IVF không phân đoạn là kích thích buồng trứng, sau đó chuyển một hoặc nhiều phôi tươi, phôi dư sẽ được trữ đông và chuyển vào chu kỳ sau. Nghiên cứu so sánh tỷ lệ trẻ sinh sống, cân nặng khi sinh thấp (low birthweight - LBW <2,5 kg), sinh non (<37 tuần), con to (macrosomia) (> 4 kg), thai nhỏ (small for gestational age - SGA < 10th centile) và thai lớn (large for gestational age - LGA> 90th centile) giữa hai nhóm.

Nghiên cứu đánh giá 202.968 phụ nữ trải qua 337.148 chu kỳ kích thích buồng trứng và 399.896 quy trình chuyển phôi. Tỷ lệ trẻ sinh sống tương tự ở IVF phân đoạn và không phân đoạn (rate ratio 1.05, 95% CI 1.02–1.08)) nhưng thấp hơn trong IVF phân đoạn khi xét theo tuổi, số chu kỳ, nguyên nhân vô sinh và đáp ứng buồng trứng (rate ratio 0.80, 95% CI 0.78–0.83). IVF phân đoạn có liên quan đến tăng nguy cơ con to (risk ratio 1.72, 95% CI 1.55–1.92) và LGA (1.51, 1.38–1.66) nhưng rủi ro thấp hơn đối với LBW (0.71, 0.65–0.78) và SGA (0.64, 0.56–0.72). Với việc chuyển phôi nang/phôi giai đoạn phân cắt (329.621 chu kỳ), kết quả không thay đổi đáng kể. Ngoài ra, khi giới hạn ở những phụ nữ có một lần chuyển phôi, việc chuyển phôi đông lạnh trong IVF phân đoạn không còn liên quan đến nguy cơ LBW (0.97, 0.71–1.33) hoặc SGA (0.84, 0.61–1.15) nhưng nguy cơ con to (1.74, 1.39–2.20) và LGA (1.49, 1.20–1.86) vẫn tồn tại.

Nghiên cứu cho thấy, trữ đông là một khía cạnh thiết yếu trong hỗ trợ sinh sản và ứng dụng rộng rãi của nó đã tối đa hóa sự an toàn và hiệu quả trong điều trị. Nhưng việc áp dụng rộng rãi IVF phân đoạn và trữ đông tất cả các phôi cho quần thể bệnh nhân không chọn lọc có thể liên quan đến tỷ lệ sinh sống thấp hơn. Vì vậy, IVF phân đoạn nên được giới hạn ở bệnh nhân có nhu cầu lâm sàng rõ ràng, chẳng hạn như ngăn ngừa quá kích buồng trứng hoặc có chỉ định xét nghiệm di truyền của phôi.

Nguồn: Andrew D. A. C. Smith (2019), Live birth rates and perinatal outcomes when all embryos are frozen compared with conventional fresh and frozen embryo transfer: a cohort study of 337,148 in vitro fertilisation cycles, Smith et al. BMC Medicine. https://doi.org/10.1186/s12916-019-1429-z.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK