Tin tức
on Monday 23-12-2019 10:30am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Phthalates là chất làm dẻo được sử dụng phổ biến nhất trên toàn thế giới, chủ yếu được áp dụng trong các sản phẩm polyvinyl clorua và dung môi bao gồm đồ chơi trẻ em, sản phẩm chăm sóc cá nhân, mỹ phẩm và sơn. Phthalate có thể từ các sản phẩm này ra môi trường và được cơ thể con người hấp thụ qua đường hô hấp, ăn uống và tiếp xúc qua da. Nhiều nghiên cứu cho thấy, nhiều chất chuyển hóa phthalate được tìm thấy ở các quần thể người trên toàn thế giới, bao gồm cả phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Những năm gần đây, phơi nhiễm Phthalate được báo cáo gây ảnh hưởng đến chức năng buồng trứng và ảnh hưởng hơn nữa đến sự phát triển của phôi và kết quả thai. Một nghiên cứu trước đây đã kiểm tra nồng độ của tám chất chuyển hóa phthalate trong 110 cặp mẫu nước tiểu và dịch nang, nhưng không thấy mối liên quan đáng kể nào với các thông số IVF trung gian (Du và cộng sự, 2016) với cỡ mẫu nhỏ. Do đó, Taoran Deng và cộng sự tiến hành nghiên cứu đánh giá mối liên quan của phthalates với kết quả trung gian và kết quả thai của chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) với sự mở rộng cỡ mẫu.
Nghiên cứu tiến hành trên 663 phụ nữ được điều trị IVF/ICSI. Vào ngày thu nhận noãn, các mẫu nước tiểu được thu thập từ những đối tác nữ với hộp đựng bằng polypropylen vô trùng. Tất cả các mẫu được lưu trữ ở -80°C. Sau đó, tiến hành đo nồng độ của tám chất chuyển hóa phthalate bao gồm mono-n-butyl phthalate (MBP), monoethyl phthalate (MEP), monomethyl phthalate (MMP), mono (2- ethylhexyl) phthalate (MEHP), mono (2-ethyl-5-oxohexyl) phthalate (MEOHP), mono (2-ethyl-5-hydroxyhexyl) phthalate (MEHHP), monon-octyl phthalate (MOP), và monobenzyl phthalate (MBzP)). Nồng độ các chất chuyển hóa phthalate được phân loại thành các nhóm thấp, trung bình và cao theo Tertiles.
Kết quả cho thấy, hầu hết các chất chuyển hóa phthalate có nồng độ cao trong các mẫu nước tiểu (từ 94,42% đến 100%), ngoại trừ MOP với 29,56%. Trong số tất cả các chất chuyển hóa phthalate, mono-n-butyl phthalate (MBP) có nồng độ cao nhất với mức trung bình 101,51 µg/g creatinine (Cr). Nồng độ MBP có mối tương quan nghịch với tỷ lệ thụ tinh bình thường (P<0,01). Có mối tương quan đáng kể của monoethyl phthalate (MEP) với sự giảm tỷ lệ thụ tinh bình thường ở nhóm nồng độ trung bình so với nhóm nồng độ thấp (P = 0,02). Không có mối liên quan đáng kể nào về nồng độ chất chuyển hóa với tỷ lệ phôi chất lượng tốt vào ngày thứ 3 hoặc sự hình thành phôi nang. Tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt của nhóm MMP và MEP nồng độ trung bình giảm 22,4% (P = 0,04) và 21,9% (P = 0,05) so với nhóm nồng độ thấp. Tám chất chuyển hóa phthalate không tương quan với tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống hoặc tỷ lệ sẩy thai sớm. Để loại trừ khả năng gây nhiễu do vô sinh nam, nghiên cứu tập trung phân tích nhóm những người tham gia được chẩn đoán do yếu tố nữ hoặc vô sinh không rõ nguyên nhân. Kết quả cho thấy, MEHHP trong nhóm nồng độ trung bình có liên quan đến số lượng noãn thu được cao hơn so với nhóm nồng độ thấp (P = 0,04) và MEOHP trong nhóm nồng độ trung bình có tương quan với tỷ lệ thụ tinh bình thường thấp hơn so với nhóm nồng độ thấp (P = 0,02). Vẫn không có mối liên quan nào giữa nồng độ MEHP với kết quả trung gian hoặc kết quả thai. Ngoài ra, MEP trong nhóm nồng độ trung bình giảm 27% và 31% tỷ lệ phôi nang và phôi nang chất lượng tốt so với nhóm nồng độ thấp.
Nghiên cứu cho thấy, phụ nữ được điều trị IVF/ICSI có nồng độ MBP trong nước tiểu cao hơn nhiều so với các chất chuyển hóa phthalate khác. MBP có tác động bất lợi đến sự thụ tinh. MMP và MEP có thể ảnh hưởng đến chất lượng phôi nang nhưng không ảnh hưởng đến chất lượng phôi vào ngày 3. Các chất chuyển hóa khác không ảnh hưởng đến sinh sản, phù hợp với các nghiên cứu trước đây.
Nguồn: Taoran Deng (2019), The associations of urinary phthalate metabolites with the intermediate and pregnancy outcomes of women receiving IVF/ICSI treatments: A prospective single-center study, Ecotoxicology and Environmental Safety. https://doi.org/10.1016/j.ecoenv.2019.109884
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn (niPGT) có phải là cuộc cách mạng tiếp theo trong hỗ trợ sinh sản? - Ngày đăng: 23-12-2019
Ảnh hưởng của nạo hút thai đối với kết cục thai của chu kỳ chuyển phôi kế tiếp sau khi sẩy thai trong chu kỳ IVF đầu tiên - Ngày đăng: 23-12-2019
Điều kiện nuôi cấy phôi được cải thiện đáng kể trong tủ nuôi cấy liên tục: một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 23-12-2019
Sự phát triển của việc lựa chọn phôi IVF từ đánh giá hình thái chủ quan đến thuật toán từ dữ liệu time-lapse khách quan cải thiện cơ hội có trẻ sinh sống - Ngày đăng: 23-12-2019
Các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng đo bằng phương pháp SCSA - Ngày đăng: 23-12-2019
Tỉ lệ thành công giữa chu kì IVF và ICSI ở nhóm bệnh nhân nam có kháng thể kháng tinh trùng - Ngày đăng: 23-12-2019
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp giá trị dự đoán kết cục bất lợi của Doppler động mạch tử cung tam cá nguyệt ba của thai kỳ ở thai nhỏ so với tuổi thai - Ngày đăng: 19-12-2019
Bổ sung Melatonin và Caffeine trong bảo quản lạnh tinh trùng - Ngày đăng: 19-12-2019
Định lượng máu mất trong sản khoa - Ngày đăng: 19-12-2019
Đánh giá sự phân mảnh DNA của tinh trùng bằng nhiều phương pháp: so sánh khả năng dự đoán của chúng với các trường hợp vô sinh nam - Ngày đăng: 16-12-2019
Mối liên quan giữa nồng độ Lipid trong máu mẹ và tình trạng béo phì của trẻ sơ sinh - Ngày đăng: 16-12-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK