Tin tức
on Wednesday 25-12-2019 12:18pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trần Hà Lan Thanh_IVFMD Phú Nhuận
Những năm gần đây, xu hướng chuyển đơn phôi có chọn lọc (single embryo transfer- eSET) đã được xem xét và có chính sách áp dụng trên nhóm bệnh nhân phù hợp ở nhiều nước với mục tiêu giảm tỉ lệ đa thai. Tuy nhiên, eSET được áp dụng chủ yếu ở phôi nang hơn phôi giai đoạn phân chia do eSET phôi giai đoạn phân chia cho kết quả tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống thấp hơn so với eSET phôi nang. Vì thế, đòi hỏi việc lựa chọn phôi có tiềm năng tốt để eSET nhằm tăng tỉ lệ thành công trong điều trị TTTON. Hiện nay có nhiều phương pháp lựa chọn mới bên cạnh đánh giá hình thái phôi cổ điển là xét nghiệm di truyền tiền làm tổ để xác định nguyên bội (PGT-A), hệ thống nuôi cấy phôi kết hợp với camera quan sát liên tục (TLM: time-lapse monitoring)… Hình thái phôi nang được đánh giá qua 3 thông số: độ nở rộng khoang phôi, chất lượng TE, ICM. Một số nghiên cứu đã xác định mỗi thông số đóng góp để tạo tiềm năng làm tổ hoặc trẻ sinh sống nhưng các kết luận khác nhau. Đã có nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của TE hơn ICM, và đã nhấn mạnh chất lượng TE như có khả năng tiên lượng trẻ sinh sống hơn 2 thông số còn lại.
Trong khi đó, TLM cho phép đánh giá chi tiết hình thái phôi, cung cấp các thông số động học và công cụ lựa chọn phôi. TLM được nghiên cứu nhiều về tính an toàn và hiệu quả qua những nghiên cứu đoàn hệ đối chứng ngẫu nhiên, bài tổng quan của nhiều tác giả trên thế giới cho thấy cải thiện tỉ lệ làm tổ, thai lâm sàng.
Ngoài ra, PGT-A là kỹ thuật giúp chọc lọc phôi có NST nguyên bội để chuyển. Theo 2 bài nghiên cứu cộng gộp, việc chuyển phôi nguyên bội ở nhóm tiên lượng tốt, cho tỉ lệ làm tổ cao hơn (~50-60%) và tỉ lệ sẩy thai thấp hơn (~10%) (Dahdouh et al. 2015, Chen et al. 2015). Bằng chứng này đã ủng hộ cho chính sách SET phôi nang ở bệnh nhân có tiên lượng tốt và tuổi mẹ cao.
Giả thuyết được đặt ra là ngay cả khi hình thái kết hợp động học chỉ cho phép tiên lượng một phần trạng thái NST hoặc tiềm năng làm tổ, thì vẫn có thể nghiên cứu khả năng tiên đoán kết cục xa hơn ở phôi nang được chẩn đoán là nguyên bội sau PGT-A. Chính vì thế, một nghiên cứu đoàn hệ quan sát đã được tiến hành để xem liệu động học hình thái phát triển của phôi nang nguyên bội có cho phép tiên lượng trẻ sinh sống tốt hơn sau khi SET hay không. Nghiên cứu được thực hiện theo hai giai đoạn: đào tạo (511 phôi nang nguyên bội tại 2 trung tâm) và xác nhận kiểm tra (319 phôi nang nguyên bội tại 3 trung tâm). Các phôi được nuôi cấy với TLM, ghi nhận các thông số động học từ thời điểm tống xuất thể cực thứ 2 cho đến khi bắt đầu hình thành khoang phôi, đánh giá hình thái của ICM và TE phôi nang. Các phôi nang được xét nghiệm PGT-A để xác định nguyên bội sau đó được dùng để SET. Trong giai đoạn đào tạo, phân tích hồi quy logistic được thực hiện để xác định các biến thể hiện mối liên quan có ý nghĩa thống kê với trẻ sinh sống. Trong giai đoạn xác nhận, các biến này đã được kiểm tra trong một tập dữ liệu độc lập.
Kết quả:
- Trong giai đoạn đào tạo: Tỷ lệ trẻ sinh sống trung bình (LBR) là 40% (N = 207/511). Chỉ có thời điểm (tM) và chất lượng TE là các yếu tố tiên đoán giả định về trẻ sinh sống tại hai trung tâm IVF.
- Trong giai đoạn xác nhận, các phôi nang nguyên bội được đặc trưng bởi tM <80h và TE chất lượng cao sẽ có LBR là 55,2% (n = 37/67), trong khi những người có tM ≥ 80h và TE chất lượng thấp dẫn đến LBR 25,5% (N = 13/51).
Nguồn: Time of morulation and trophectoderm quality are predictors of a live birth after euploid blastocyst transfer: a multicenter study, Fertility and Sterility, 2019, https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2019.07.1322
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sự phát triển in vitro của phôi có nguồn gốc từ noãn trữ-rã đông bị trì hoãn khi so sánh với phôi từ noãn tươi: nghiên cứu time-lapse chia đôi noãn - Ngày đăng: 25-12-2019
Nồng độ Anti-mullerian và Progesterone dịch nang dự đoán khả năng phát triển phôi - Ngày đăng: 24-12-2019
Kết quả thai sau rã phôi và chuyển đơn phôi nang giữa tuổi phôi ngày 5 so với ngày 6 - Ngày đăng: 12-12-2019
Mối tương quan giữa chất lượng phôi và tỉ lệ trẻ bị dị tật bẩm sinh trong chu kì IVF/ICSI - Ngày đăng: 12-12-2019
Chất chuyển hóa Phthalate trong nước tiểu và kết quả thai của phụ nữ điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 23-12-2019
Chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn (niPGT) có phải là cuộc cách mạng tiếp theo trong hỗ trợ sinh sản? - Ngày đăng: 23-12-2019
Ảnh hưởng của nạo hút thai đối với kết cục thai của chu kỳ chuyển phôi kế tiếp sau khi sẩy thai trong chu kỳ IVF đầu tiên - Ngày đăng: 23-12-2019
Điều kiện nuôi cấy phôi được cải thiện đáng kể trong tủ nuôi cấy liên tục: một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 23-12-2019
Sự phát triển của việc lựa chọn phôi IVF từ đánh giá hình thái chủ quan đến thuật toán từ dữ liệu time-lapse khách quan cải thiện cơ hội có trẻ sinh sống - Ngày đăng: 23-12-2019
Các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng đo bằng phương pháp SCSA - Ngày đăng: 23-12-2019
Tỉ lệ thành công giữa chu kì IVF và ICSI ở nhóm bệnh nhân nam có kháng thể kháng tinh trùng - Ngày đăng: 23-12-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK