Tin tức
on Wednesday 25-12-2019 12:23pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Hiện nay, thuốc tránh thai đường uống được sử dụng rộng rãi trong hỗ trợ sinh sản. Thuốc tránh thai đường uống bao gồm estrogen và progesterone ức chế bài tiết FSH và LH nội sinh, do đó ức chế chức năng tuyến sinh dục và đồng bộ hóa nhóm nang noãn. Thuốc tránh thai đường uống có thể được sử dụng để lên lịch điều trị cho những bệnh nhân trải qua phác đồ GnRH đồng vận. Một số nghiên cứu trước đây cho thấy thuốc tránh thai đường uống làm giảm đáng kể việc thu hồi noãn. Bên cạnh đó, các nghiên cứu gần đây cho thấy thuốc tránh thai đường uống được sử dụng cho phác đồ GnRH đối vận có liên quan đến kết quả kém sau khi chuyển phôi tươi bao gồm tỷ lệ sinh sống thấp hơn, tỷ lệ mang thai thấp hơn và tỷ lệ mất thai cao hơn. Tuy nhiên, vẫn chưa đủ bằng chứng về ảnh hưởng của thuốc tránh thai đường uống đối với kết quả chu kỳ ở phụ nữ trải qua phác đồ GnRH đồng vận dài hoặc phác đồ GnRH đồng vận ngắn. Do đó, Lan Xu và cộng sự tiến hành phân tích hồi cứu để đánh giá hiệu quả của tiền xử lý thuốc tránh thai đường uống đối với kết quả chu kỳ chuyển phôi IVF ở những phụ nữ trải qua phác đồ GnRH đồng vận dài hoặc phác đồ GnRH đồng vận ngắn.
Nghiên cứu hồi cứu này thực hiện trên 2052 phụ nữ trải qua đợt điều trị IVF đầu tiên với phác đồ GnRH đồng vận dài và 3557 phụ nữ với phác đồ GnRH đồng vận ngắn. Trong mỗi phác đồ được chia thành hai nhóm là nhóm sử dụng thuốc tránh thai đường uống và nhóm đối chứng. Trong các nhóm tránh thai đường uống, một số bệnh nhân sử dụng 0,15 mg desogestrel và 0,03 mg ethinyl oestradiol và một số bệnh nhân sử dụng 3 mg drospirenone và 0,03 mg ethinyl oestradiol. Trong nhóm phác đồ GnRH đồng vận dài, thuốc tránh thai đường uống được sử dụng vào ngày 3-5 của chu kỳ kinh nguyệt và trong 21 ngày liên tiếp. Sau đó, gonadotrophin được bắt đầu với FSH tái tổ hợp (từ 75 đến 225 IU) và liều gonadotrophin được điều chỉnh theo đáp ứng buồng trứng của bệnh nhân. Đối với nhóm phác đồ GnRH đồng vận ngắn, phác đồ được bắt đầu vào ngày 1-3 của chu kỳ kinh nguyệt và việc điều trị bằng gonadotrophin được bắt đầu vào ngày thứ hai của phác đồ. Trong nhóm đối chứng của nhóm phác đồ GnRH đồng vận dài, phác đồ được bắt đầu ở giai đoạn giữa hoàng thể của chu kỳ kinh nguyệt trước đó (5 -7 ngày sau khi rụng trứng). Trong nhóm đối chứng của nhóm phác đồ GnRH đồng vận ngắn, phác đồ được thực hiện vào ngày 1- 3 của chu kỳ kinh nguyệt tự nhiên. Sau khi kích thích buồng trứng, noãn được thu nhận, tiến hành ICSI, kiểm tra thụ tinh và kiểm tra phôi. Sau đó, tiến hành chuyển hai phôi tươi chất lượng tốt ngày 3.
Kết quả cho thấy, sử dụng thuốc tránh thai đường uống không ảnh hưởng đến số lượng noãn thu được so với nhóm đối chứng trong cả 2 phác đồ (P > 0.05). Nhóm sử dụng thuốc tránh thai đường uống cho thấy tỷ lệ thụ tinh cao hơn (61,4% so với 58,2%, P <0,001) và phôi chất lượng cao hơn (4,4 ± 3.0 so với 4,1 ± 2,8, P = 0,015) so với nhóm đối chứng ở nhóm phác đồ dài, nhưng ở phác đồ ngắn không thấy sự khác biệt về tỷ lệ thụ tinh và số lượng phôi chất lượng cao. Bên cạnh đó, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thai lâm sàng (phác đồ dài: 49,2% so với 46,7%; phác đồ ngắn: 39,4% so với 38,0%, P > 0.05) và tỷ lệ trẻ sinh sống (phác đồ dài: 44,3% so với 41,3%; phác đồ ngắn: 32,8% so với 31,4 %, P > 0.05) giữa nhóm sử dụng thuốc tránh thai đường uống và nhóm đối chứng trong phác đồ dài hoặc phác đồ ngắn.
Nghiên cứu cho thấy, sử dụng thuốc tránh thai đường uống không ảnh hưởng đến kết quả IVF trong phác đồ GnRH đồng vận dài hoặc phác đồ GnRH đồng vận ngắn. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cho thấy trong phác đồ GnRH đối vận, thuốc tránh thai đường uống có liên quan đến sự không đồng bộ giữa phôi và nội mạc tử cung, có thể dẫn đến nội mạc tử cung mỏng hơn và tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn. Vì vậy, có khả năng thuốc tránh thai đường uống có tác động tiêu cực đến nội mạc tử cung trong phác đồ GnRH đối vận nhưng không ảnh hưởng đáng kể trong phác đồ GnRH đồng vận, nhưng cơ chế cơ bản đằng sau sự khác biệt này là không chắc chắn và cần phải nghiên cứu thêm. Bên cạnh đó, bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu này có nội mạc tử cung bình thường. Do đó, cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa để đánh giá ảnh hưởng của thuốc tránh thai lên nội mạc tử cung và tỷ lệ thai lâm sàng đối với những bệnh nhân có nội mạc tử cung mỏng hoặc thụ thể nội mạc tử cung bị suy yếu.
Nguồn: Lan Xu (2019), Effects of oral contraceptive pretreatment on IVF outcomes in women following a GnRH agonist protocol, Reproductive Healthcare Ltd. https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2019.08.002.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tỷ lệ trẻ sinh sống và kết quả chu sinh khi tất cả phôi được trữ đông so với chuyển phôi tươi - Ngày đăng: 25-12-2019
BMI cao có nên là lý do để từ chối điều trị IVF? - Ngày đăng: 25-12-2019
Thời điểm hình thành phôi dâu và chất lượng tế bào lá nuôi là yếu tố tiên lượng trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi nang nguyên bội: nghiên cứu đa trung tâm - Ngày đăng: 25-12-2019
Sự phát triển in vitro của phôi có nguồn gốc từ noãn trữ-rã đông bị trì hoãn khi so sánh với phôi từ noãn tươi: nghiên cứu time-lapse chia đôi noãn - Ngày đăng: 25-12-2019
Nồng độ Anti-mullerian và Progesterone dịch nang dự đoán khả năng phát triển phôi - Ngày đăng: 24-12-2019
Kết quả thai sau rã phôi và chuyển đơn phôi nang giữa tuổi phôi ngày 5 so với ngày 6 - Ngày đăng: 12-12-2019
Mối tương quan giữa chất lượng phôi và tỉ lệ trẻ bị dị tật bẩm sinh trong chu kì IVF/ICSI - Ngày đăng: 12-12-2019
Chất chuyển hóa Phthalate trong nước tiểu và kết quả thai của phụ nữ điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 23-12-2019
Chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn (niPGT) có phải là cuộc cách mạng tiếp theo trong hỗ trợ sinh sản? - Ngày đăng: 23-12-2019
Ảnh hưởng của nạo hút thai đối với kết cục thai của chu kỳ chuyển phôi kế tiếp sau khi sẩy thai trong chu kỳ IVF đầu tiên - Ngày đăng: 23-12-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK