Tin tức
on Monday 11-11-2019 11:39am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Hồng Châu - IVFMDPN
Những năm gần đây xu hướng chuyển đơn phôi và sử dụng phôi đông lạnh ngày càng tăng. Những phôi thường được sử dụng để chuyển vào buồng tử cung là phôi ở giai đoạn phân cắt (phôi ngày 2 hoặc ngày 3). Những tiến bộ trong nuôi cấy hiện nay đã có thể nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang (phôi ngày 5 hoặc ngày 6). Có những nghiên cứu cho thấy việc chuyển phôi nang sẽ làm tăng tỉ lệ mang thai và tỉ lệ sinh sống, ngoài ra còn làm tăng cơ hội lựa chọn phôi tốt để chuyển. Do đó, dẫn đến một xu hướng chung trên thế giới là ưu tiên chuyển phôi nang. Tuy nhiên, lại có một số báo cáo cho thấy việc chuyển phôi nang làm tăng nguy cơ sinh đôi cùng trứng, sinh non (preterm birth-PTB), thai nhỏ so với tuổi thai (small gestational age-SGA), nhẹ cân (low birth weight-LBW), dị tật bẩm sinh.
Do đó, để kết luận liệu việc chuyển phôi nang có làm tăng tỉ lệ dị tật bẩm sinh và các kết quả bất lợi trong IVF hay không, Wenhao Shi MD và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu tại một trung tâm ART ở Trung Quốc nhằm so sánh tỉ lệ dị tật bẩm sinh, các kết quả trước và sau sinh của chuyển phôi nang so với chuyển phôi giai đoạn phân cắt. Dữ liệu được thu thập trong 10 năm từ 2006-2015, có tất cả 15.254 ca mang thai lâm sàng và 16.213 trẻ sơ sinh được sinh ra từ các chu kỳ IVF/ICSI từ chuyển phôi nang và phôi giai đoạn phân cắt.
Kết quả cho thấy có sự mất cân bằng tỷ lệ giới tính với tỉ lệ bé trai cao hơn đáng kể ở những trẻ sơ sinh sau khi chuyển phôi nang. Ngoài ra, không có sự khác biệt về tỉ lệ sẩy thai, thai ngoài tử cung, thai chết lưu, sinh non (<32 tuần), PTB (<37 tuần), LBW, SGA và thai lớn so với tuổi thai (large for gestational age-LGA) giữa chuyển phôi nang và phôi giai đoạn phân cắt. Tổng cộng có 176 trường hợp dị tật bẩm sinh (123 của phôi giai đoạn phân cắt và 53 của phôi nang), tuy nhiên không có sự khác biệt giữa 2 nhóm.
Kết luận: Việc chuyển phôi nang làm tỉ lệ bé trai sinh ra cao hơn so với chuyển phôi giai đoạn phân cắt. Ngoài ra, không có sự khác biệt về các kết quả bất lợi và dị tật bẩm sinh sau khi chuyển phôi nang so với chuyển phôi giai đoạn phân cắt.
Nguồn: Comparison of perinatal outcomes following blastocyst stage vs cleavage stage embryo transfer: 10 years data analysis from a single center, Reproductive BioMedicine Online (2019),
doi: https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2018.12.031
Các tin khác cùng chuyên mục:
Quá trình apoptosis của các tế bào granulosa tăng ở những phụ nữ giảm dự trữ buồng trứng - Ngày đăng: 11-11-2019
Hỗ trợ sinh sản và nguy cơ ung thư: Một nghiên cứu dựa trên dân số và tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 11-11-2019
Sự tăng trưởng thời thơ ấu của các trẻ sinh đơn từ IVF/ ICSI : tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 11-11-2019
Ảnh hưởng của chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng đối với kết cục hỗ trợ sinh sản và các thông số tinh dịch đồ và lối sống - Ngày đăng: 11-11-2019
Vai trò của FSH trong tiên lượng kết quả giải phẫu mẫu mô tinh hoàn ở bệnh nhân vô tinh không bế tắc - Ngày đăng: 11-11-2019
AZOOSPERMIA không tắc nghẽn điều trị MICROTESE và ICSI - Ngày đăng: 11-11-2019
Đánh giá cấu trúc nhiễm sắc thể và phân mảnh dna tinh trùng ở những người đàn ông vô sinh có hình dạng tinh trùng đuôi ngắn bất động - Ngày đăng: 11-11-2019
Ứng dụng 17-ALPHA HYDROXYPROGESTERONE CAPROATE trong dự phòng sinh non ở thai phụ tiền căn sinh non - Ngày đăng: 11-11-2019
Nồng độ TSH và kết quả thai ở phụ nữ có chức năng tuyến giáp bình thường thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 06-11-2019
Chuyển phôi bất thường nhiễm sắc thể sau khi thực hiện PGT-A: theo dõi tỷ lệ trẻ sinh sống trên toàn thế giới - Ngày đăng: 06-11-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK