Tin tức
on Monday 11-11-2019 11:08am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trần Hà Lan Thanh_IVFMD Phú Nhuận
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có liên quan đến việc tăng nguy cơ kết quả thai kỳ bất lợi, bao gồm nhẹ cân lúc sinh và hạn chế tăng trưởng thai nhi. Tuy nhiên, việc theo dõi lâu dài về sự tăng trưởng của những đứa trẻ này còn hạn chế.
Một bài tổng quan hệ thống và phân tích gộp năm 2019 được thực hiện nhằm xem xét một cách có hệ thống các tài liệu về chiều cao và cân nặng sau sinh ở trẻ em từ điều trị IVF hoặc ICSI, so với trẻ sinh ra sau khi thụ thai tự nhiên.
Tìm kiếm tài liệu bằng cơ sở dữ liệu PubMed, Embase và Scorpus. Tiêu chí lựa chọn là các nghiên cứu đoàn hệ hoặc nghiên cứu bệnh chứng với một nhóm trẻ sinh đơn từ IVF hoặc ICSI cùng với nhóm đối chứng là những đứa trẻ sinh đơn từ mẹ mang thai tự nhiên. Các nghiên cứu này sẽ được xem xét bởi ít nhất hai tác giả. Các phân tích tổng hợp được thực hiện bằng cách sử dụng Trình quản lý đánh giá của Cochrane (Cochrane Review Manager). Chất lượng của các nghiên cứu được đánh giá theo Thang đo Newcastle-Ottawa.
Kết quả chính:
- 20 nghiên cứu đã được đưa vào, với 13 trong số này đủ điều kiện để phân tích tổng hợp. Các phân tích tổng hợp đã so sánh 3.972 trẻ sinh ra từ IVF / ICSI với 11.012 trẻ từ mẹ mang thai tự nhiên.
- Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về cân nặng của trẻ ở 2 nhóm [chênh lệch trung bình (MD) về cân nặng -160 g; CI 95% -360, 3g]. Khi phân tầng theo độ tuổi của trẻ khi theo dõi, thì trọng lượng thấp hơn đáng kể ở trẻ 0-4 tuổi được sinh ra sau điều trị IVF / ICSI (MD -180 g; 95% CI -320, -4), nhưng điều này là không có ý nghĩa lâu hơn ở trẻ em từ 5 tuổi (MD -160 g; 95% CI -580, 260).
- Phân tích gộp cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về chiều cao thời thơ ấu.
Nguồn: Childhood growth of singletons conceived following in vitro fertilisation or intracytoplasmic sperm injection: a systematic review and meta-analysis, BJOG: An International Journal of Obstetrics and Gynaecology, 2019, doi: 10.1111/1471-0528.15456
Từ khóa: Sự tăng trưởng thời thơ ấu của các trẻ sinh đơn từ IVF/ ICSI : tổng quan hệ thống và phân tích gộp
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng đối với kết cục hỗ trợ sinh sản và các thông số tinh dịch đồ và lối sống - Ngày đăng: 11-11-2019
Vai trò của FSH trong tiên lượng kết quả giải phẫu mẫu mô tinh hoàn ở bệnh nhân vô tinh không bế tắc - Ngày đăng: 11-11-2019
AZOOSPERMIA không tắc nghẽn điều trị MICROTESE và ICSI - Ngày đăng: 11-11-2019
Đánh giá cấu trúc nhiễm sắc thể và phân mảnh dna tinh trùng ở những người đàn ông vô sinh có hình dạng tinh trùng đuôi ngắn bất động - Ngày đăng: 11-11-2019
Ứng dụng 17-ALPHA HYDROXYPROGESTERONE CAPROATE trong dự phòng sinh non ở thai phụ tiền căn sinh non - Ngày đăng: 11-11-2019
Nồng độ TSH và kết quả thai ở phụ nữ có chức năng tuyến giáp bình thường thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 06-11-2019
Chuyển phôi bất thường nhiễm sắc thể sau khi thực hiện PGT-A: theo dõi tỷ lệ trẻ sinh sống trên toàn thế giới - Ngày đăng: 06-11-2019
Động học phát triển của phôi có liên quan đến kết quả lâm sàng trong chu kỳ chuyển đơn phôi có thực hiện PGT-A - Ngày đăng: 30-10-2019
Tinh chỉnh việc lựa chọn phôi nang dựa trên hình thái học: một phân tích đa trung tâm với 2461 ca chuyển đơn phôi nang - Ngày đăng: 30-10-2019
Mối tương quan giữa phân mảnh DNA tinh trùng, gốc tự do với sẩy thai liên tiếp không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 29-10-2019
Myoinositol cải thiện chất lượng tinh trùng sau rã đông - Ngày đăng: 29-10-2019
Mối tương quan giữa tỉ lệ phôi khảm và chất lượng tinh trùng ở nam giới - Ngày đăng: 29-10-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK