Tin tức
on Monday 05-08-2019 3:05pm
Danh mục: Tin quốc tế
Lựa chọn người cho noãn là điều cần thiết cho các cặp vợ chồng điều trị IVF trong chu kỳ xin noãn. Người cho noãn trẻ tuổi thường được lựa chọn nhiều hơn người lớn tuổi, một phần là vì khả năng sinh sản của nữ giới ngày cảng giảm khi tuổi tăng, ngoài ra tuổi của người cho noãn còn được xem là một yếu tố quan trọng để dự đoán khả năng thành công trong một chu kỳ điều trị xin noãn. Một số nghiên cứu thực hiện đánh giá mối tương quan giữa tuổi người cho noãn và kết quả điều trị của người nhận cho thấy có mối tương quan đáng kể về tỉ lệ thai và tỉ lệ sinh sống. Tuy nhiên những nghiên cứu này đã công bố từ lâu và gần đây chưa có nghiên cứu mới nào công bố về vấn đề này. Vì tầm quan trọng của tuổi người cho noãn trong việc dự đoán khả năng thành công trong điều trị IVF vẫn chưa rõ ràng nên Leigh A. Humphries và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này.
Nghiên cứu hồi cứu thu nhận dữ liệu từ tháng 1/2002 đến tháng 9/2016 trên kết quả điều trị IVF trong chu kỳ điều trị đầu tiên của những người phụ nữ xin noãn mà cụ thể là đánh giá tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống dựa trên tuổi của người cho noãn. Nghiên cứu so sánh trên 3 nhóm dựa trên tuổi của người cho noãn: < 25 tuổi, 25 đến < 30 tuổi và từ 30 đến < 35 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Số lượng cụm noãn chọc hút và số noãn trưởng thành ở nhóm 30 đến < 35 tuổi hơi thấp so với 2 nhóm còn lại. Tỉ lệ sinh sống ở nhóm người cho < 25 tuổi và 30 đến < 35 tuổi không có sự khác biệt (37,9% và 34%) trong khi tỉ lệ này ở nhóm 25 đến < 30 tuổi là 43,9%. Tỉ lệ làm tổ cũng không có gì khác biệt ở 3 nhóm. Sau khi điều chỉnh tuổi của người nhận, nghiên cứu này chỉ ra rằng không có sự tương quan giữa người cho noãn trẻ tuổi (< 25 tuổi) với tỉ lệ thai lâm sàng (RR 0,90; 95% CI 0,77–1,06) và tỉ lệ sinh sống (RR 0,87; 95% CI 0,72–1,04).
Như vậy nghiên cứu này cho thấy rằng người cho noãn trẻ tuổi (< 25 tuổi) không giúp kết quả điều trị của người nhận noãn trở nên tốt hơn. Như vậy, việc ưu tiên sử dụng noãn của những người cho trẻ tuổi không được khuyến nghị theo nghiên cứu này vì thiếu bằng chứng về kết quả thai và kết quả sinh sống.
CVPH. Lê Thị Bích Phượng - IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: Is younger better? Donor age less than 25 does not predict more favorable outcomes after in vitro fertilization. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. 10.1007/s10815-019-01494-x
Nghiên cứu hồi cứu thu nhận dữ liệu từ tháng 1/2002 đến tháng 9/2016 trên kết quả điều trị IVF trong chu kỳ điều trị đầu tiên của những người phụ nữ xin noãn mà cụ thể là đánh giá tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống dựa trên tuổi của người cho noãn. Nghiên cứu so sánh trên 3 nhóm dựa trên tuổi của người cho noãn: < 25 tuổi, 25 đến < 30 tuổi và từ 30 đến < 35 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Số lượng cụm noãn chọc hút và số noãn trưởng thành ở nhóm 30 đến < 35 tuổi hơi thấp so với 2 nhóm còn lại. Tỉ lệ sinh sống ở nhóm người cho < 25 tuổi và 30 đến < 35 tuổi không có sự khác biệt (37,9% và 34%) trong khi tỉ lệ này ở nhóm 25 đến < 30 tuổi là 43,9%. Tỉ lệ làm tổ cũng không có gì khác biệt ở 3 nhóm. Sau khi điều chỉnh tuổi của người nhận, nghiên cứu này chỉ ra rằng không có sự tương quan giữa người cho noãn trẻ tuổi (< 25 tuổi) với tỉ lệ thai lâm sàng (RR 0,90; 95% CI 0,77–1,06) và tỉ lệ sinh sống (RR 0,87; 95% CI 0,72–1,04).
Như vậy nghiên cứu này cho thấy rằng người cho noãn trẻ tuổi (< 25 tuổi) không giúp kết quả điều trị của người nhận noãn trở nên tốt hơn. Như vậy, việc ưu tiên sử dụng noãn của những người cho trẻ tuổi không được khuyến nghị theo nghiên cứu này vì thiếu bằng chứng về kết quả thai và kết quả sinh sống.
CVPH. Lê Thị Bích Phượng - IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: Is younger better? Donor age less than 25 does not predict more favorable outcomes after in vitro fertilization. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. 10.1007/s10815-019-01494-x
Các tin khác cùng chuyên mục:
Môi trường nuôi cấy phôi không ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức của trẻ 9 tuổi được sinh ra sau điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 05-08-2019
Ảnh hưởng của sử dụng cà phê hàng ngày ở phụ nữ lên thành công của điều trị vô sinh: nghiên cứu đoàn hệ ở Đan Mạch - Ngày đăng: 05-08-2019
Vai trò của chẩn đoán lệch bội nhiễm sắc thể trên nhóm bệnh nhân lớn tuổi - Ngày đăng: 05-08-2019
Tụ máu dưới màng đệm và nguy cơ sẩy thai trên thai kỳ đơn thai - Ngày đăng: 05-08-2019
Ảnh hưởng của hoạt hóa noãn nhân tạo bằng Calcium Inophore trên noãn không thụ tinh sau một ngày ICSI - Ngày đăng: 05-08-2019
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh hiệu quả của Nifedipine và Indomethacin trong dự phòng sinh non - Ngày đăng: 30-07-2019
Mối liên hệ giữa chuyển hóa amino acid và lệch bội nhiễm sắc thể giai đoạn tiền làm tổ của phôi IVF - Ngày đăng: 30-07-2019
Trữ mô tinh hoàn: 8 năm kinh nghiệm từ mạng lưới liên kết của các trung tâm - Ngày đăng: 30-07-2019
CHẤT LƯỢNG TINH TRÙNG NGÀY CHỌC HÚT GIÚP DỰ ĐOÁN TỶ LỆ THỤ TINH THẤP TRONG CHU KỲ IVF CỔ ĐIỂN - Ngày đăng: 29-07-2019
ACID BÉO OMEGA-3 VÀ ĐIỀU TRỊ IVF - Ngày đăng: 29-07-2019
Các vấn đề tranh luận trong ART: những lưu ý và nguy cơ đối với nuôi cấy phôi không gián đoạn - Ngày đăng: 26-07-2019
Mối tương quan giữa BMI mẹ và động học phôi - Ngày đăng: 25-07-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK