Giáo sư Matti Lehtinen, PhD và các đồng nghiệp đã báo cáo hiệu quả của vaccine trong phòng ngừa CIN3+ và ung thư biểu mô tuyến tại chỗ (adenocarcinoma in situ, AIS) trong bản phân tích kết thúc của nghiên cứu PATRICIA (PApilloma TRIal against Cancer In young Adults, thử nghiệm về Papilloma trong phòng ngừa ung thư ở người trẻ).
Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung (Cervical intraepithelial neoplasia, CIN) từ độ 2 trở lên (CIN2+) là kết cục chính được sử dụng thay thế trong các thử nghiệm vaccine ngừa papillomavirus ở người (HPV). Đối với CIN3+, tiền thân của ung thư cổ tử cung xâm lấn, thì hiệu quả của vaccin khó đánh giá hơn vì tỉ lệ mắc CIN3+ thấp, nhưng nó lại cung cấp bằng chứng chặt chẽ nhất trong việc ngăn ngừa ung thư.
Các phụ nữ khỏe mạnh tuổi từ 15- 25 có bạn tình không quá 6 người được đưa vào nghiên cứu PATRICIA, bất kể tình trạng HPV DNA ban đầu, tình trạng huyết thanh với HPV-16 hoặc HPV-18, hoặc kết quả tế bào học. Các phụ nữ được phân ngẫu nhiên (1:1) hoặc dùng vaccine ngừa HPV-16/18 có chứa tá dược AS04 hoặc dùng vaccine ngừa viêm gan A làm nhóm chứng, sử dụng hệ thống phân bố ngẫu nhiên với thuật toán tính các khoảng tuổi và địa điểm nghiên cứu.
Cả bệnh nhân và người nghiên cứu đều không biết loại vaccine được sử dụng. Kết cục nghiên cứu chính của thử nghiệm PATRICIA đã từng được báo cáo trước đó. Trong phân tích cuối cùng này, các nhà nghiên cứu tập trung vào CIN3+ và AIS trong nhóm được quan tâm nhất, bao gồm nhóm đã chủng ngừa và nhóm chưa từng được chủng ngừa trước đó.
Nhóm đã chủng ngừa là những phụ nữ đã được nhận ít nhất một liều vaccine, trong đó gồm cả những phụ nữ hoạt động tình dục nhiều (nhóm vaccin = 9319; nhóm chứng = 9325). Nhóm chưa từng được chủng ngừa là những phụ nữ không có bằng chứng nhiễm type HPV gây ung thư tại thời điểm nhận vào nghiên cứu, gần tương đương với các trường hợp phơi nhiễm HPV ở tuổi vị thành niên (nhóm vaccin = 5824; nhóm chứng = 5820).
Kết quả
Hiệu quả của vaccine trong phòng ngừa CIN3+ do HPV – 16/18 là 100% (CI 95% 85.5 – 100) ở nhóm chưa từng chủng ngừa và 45.7% (22.9 – 62.2) ở nhóm đã chủng ngừa. Hiệu quả của vaccine trong phòng ngừa tất cả các dạng tổn thương giai đoạn CIN3+ (tổn thương bất kể type HPV và bao gồm cả các tổn thương không tìm thấy DNA HPV) là 93.2% (78.9 – 98.7%) ở nhóm chưa từng chủng ngừa và 45.6% (28.8 – 58.7) ở nhóm đã chủng ngừa.
Ở nhóm chưa từng chủng ngừa, hiệu quả vaccine trong phòng ngừa tất cả các dạng CIN3+ là hơn 90% ở tất cả các nhóm tuổi. Ở nhóm đã chủng ngừa, hiệu quả vaccine ngăn ngừa tất cả các dạng CIN3+ và CIN3+ kết hợp với HPV-16/18 là cao nhất ở nhóm tuổi 15-17 tuổi và giảm từ từ trong các nhóm tuổi 18 – 20 và 21 – 25.
Hiệu quả vaccin trong phòng ngừa tất cả các dạng AIS là 100% (31.0 – 100) ở nhóm chưa từng chủng ngừa và 76.9% (16.0 – 95.8) ở nhóm đã chủng ngừa. Các tác dụng phụ nghiêm trọng xảy ra trong 835 phụ nữ (9.0%) ở nhóm dùng vaccine và 829 phụ nữ (8.9%) ở nhóm chứng. Chỉ có 10 (0,1%) và 5 (0,1%) biến cố được cho là có liên quan đến chủng ngừa lần lượt xảy ra ở nhóm được tiêm vaccin và nhóm chứng.
Các nhà nghiên cứu cho rằng kết quả của nghiên cứu PATRICIA cho thấy hiệu quả tuyệt vời của vaccin trong việc phòng ngừa CIN3+ và AIS bất kể có DNA của HPV trong tổn thương hay không. Việc tiêm chủng trên cộng đồng vaccin kết hợp HPV – 16/18 và trên những đối tượng ở tuổi vị thành niên có khả năng làm giảm đáng kể tỉ lệ mắc ung thư cổ tử cung.
Người dịch: BS Nguyễn Thị Ngọc Nhân
Nguồn: The Lancet Oncology, Early Online Publication, 9 November 2011
doi:10.1016/S1470-2045(11)70286-8Cite or Link Using DOI
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...