Thông tin từ nhóm các nhà thử nghiệm lâm sàng ung thư vú giai đoạn sớm (Early Breast Cancer Trialists’ Collaborative Group) xác nhận rằng xạ trị có thể giảm khoảng 50% nguy cơ tái phát và giảm đáng kể nguy cơ tử vong sau phẫu thuật bảo tồn tuyến vú trong các trường hợp ung thư vú.
Trưởng nhóm nghiên cứu, bác sĩ. Sarah C. Darby, từ đơn vị Nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng của đại học Oxford, Vương quốc Anh, phát biểu với tờ báo y khoa MedScape rằng dữ liệu mới của họ khẳng định một lần nữa các kết luận từ các nghiên cứu trước đó là “xạ trị làm giảm đáng kể tỉ lệ tử vong”.
“Vào thời điểm này, phần lớn các phác đồ điều trị đều chỉ rõ xạ trị nên được áp dụng cho tất cả bệnh nhân sau phẫu thuật bảo tồn tuyến vú”, bà giải thích. “Tuy nhiên, đôi khi bác sĩ phải cân nhắc liệu điều đó có thực sự cần thiết cho tất cả phụ nữ. Kết quả tìm được cho phép bác sĩ lẫn bệnh nhân có thể tin tưởng hơn về lợi ích của xạ trị. Vì thế, có nhiều khả năng như kết luận của bài báo này đề cập, một số phụ nữ sẽ được xạ trị thay vì trước đó được quyết định không xạ trị. Kết quả sẽ được phản ánh trong từng phương pháp điều trị khác nhau.”
Bác sĩ Ian H. Kunkler, khoa Ung thư học lâm sàng của đại học Edinburgh, Scotland, đã xem lại nghiên cứu này và cho biết: “Ảnh hưởng từ nghiên cứu này đối với thực hành lâm sàng là nghiên cứu khẳng định sự đồng thuận hiện tại rằng không nên bỏ qua xạ trị cho bất kỳ nhóm bệnh nhân nào sau phẫu thuật bảo tồn vú, mặc dù ở những bệnh nhân lớn tuổi có nguy cơ thấp được điều trị bằng Tamoxifen sau phẫu thuật bản tồn vú thì lợi ích tuyệt đối của điều trị rất thấp.”
Một phân tích trên 10.801 phụ nữ tham gia vào 17 thử nghiệm xạ trị sau phẫu thuật bảo tồn vú đã được tiến hành trên toàn thế giới. Các thử nghiệm bảo tồn vú bao gồm cắt bỏ khối u và một phần mô lành xung quanh hoặc cắt bỏ một phần tư vú. Thời gian theo dõi trung bình là 9,5 năm, và 25% bệnh nhân được theo dõi trong hơn 10 năm.
Tái phát ung thư giảm rõ rệt trong năm đầu tiên sau xạ trị, và được duy trì trong suốt thập kỉ đầu. 10 năm sau chẩn đoán ung thư vú, tỉ lệ tái phát ung thư của nhóm không xạ trị là 35%, trong khi của nhóm được xạ trị là 19% - nguy cơ tuyệt đối giảm 15,7% (P < 0.0001).
Tái phát lần đầu tiên tại vùng xung quanh khối u và các hạch lympho gần đó (hạch nách chẳng hạn) xảy ra với một nửa phụ nữ có xạ trị, nhưng đến ¾ số người không xạ trị.
Sau xạ trị, tỉ lệ sống 15 năm tiếp theo của bệnh nhân là 3,8% (P = 0.00005). Điều này cũng cho thấy khi xạ trị, cứ mỗi 4 trường hợp tránh được tái phát có 1 trường hợp tránh được nguy cơ tử vong. Thêm vào đó, xạ trị không làm tăng nguy cơ tử vong trong vòng 15 năm do các nguyên nhân khác không phải ung thư vú.
Tác giả kết luận rằng: “Kết quả từ các cuộc thử nghiệm cho thấy việc xạ trị sau phẫu thuật bảo tồn vú không chỉ làm giảm đáng kể nguy cơ tái phát, mà còn giảm tương đối nguy cơ tử vong. Các kết quả cho thấy việc tập trung loại bỏ tế bào ung thư trong phẫu thuật bảo tồn vú cùng với xạ trị giúp giảm khả năng tái phát lẫn di căn xa.”
Theo tiến sĩ Darby, một điều ngạc nhiên rằng xạ trị giúp cải thiện một cách tuyệt vời nguy cơ tái phát trong 10 năm ở phụ nữ trẻ với khối u grade cao có thụ thể với estrogen, ngay cả khi họ đang sử dụng tamoxifen.
Trong một bài bình luận đi kèm, bác sĩ Thomas A. Buchholz, Trưởng khoa xạ trị ung thư của đại học Texas, kiêm bác sĩ điều trị Trung tâm ung thư Anderson ở Houston viết: “Số liệu từ hàng ngàn bệnh nhân của các thử nghiệm lâm sàng được phân tích trong nghiên cứu tổng quan này tiếp tục cho chúng tôi cái nhìn quan trọng hơn. Những số liệu đó củng cố vai trò quan trọng của xạ trị trong ung thư vú, và lợi ích của xạ trị đã bổ sung cho những tiến bộ của cả phẫu thuật lẫn điều trị hệ thống. Những lợi ích gia tăng từ mỗi phương pháp điều trị góp phần vào sự thành công liên tục trong việc giảm tỉ lệ tử vong do ung thư vú."
Tiến sĩ Kunkler lưu ý rằng “tổng quan mới nhất của Oxford đã cung cấp những số liệu quan trọng theo dõi dài hạn hơn, xác nhận tầm ảnh hưởng của xạ trị tập trung sau phẫu thuật bảo tồn vú trong việc giảm tỉ lệ tái phát và tử vong. Hiệu quả của xạ trị vượt quá hiệu quả của hóa trị tập trung hay liệu pháp nội tiết đơn thuần”.
Ông giải thích rằng vì nghiên cứu có ít bệnh nhân trên 70 tuổi, khả năng khái quát hóa của dữ liệu đối với phân nhóm nguy cơ thấp bị giới hạn. Thật vậy, số trường hợp phụ nữ từ 70 tuổi trở lên không được xạ trị tương đối thấp (2.1%). Nhóm này cũng có tỉ lệ tử vong tương đương với nhóm tử vong không do ung thư vú (chủ yếu do bệnh mạch máu).
Nguồn: Janis C. Kelly. Radiation After Breast Conserving Surgery Cuts Recurrence – Lancet
BS Tăng Quang Thái
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...