Theo một nghiên cứu lâm sàng từ Hà Lan, những phụ nữ được điều trị thụ tinh ống nghiệm có gia tăng nguy cơ phát triển u buồng trứng loại giáp biên ác, không gây tử vong (borderline, non-fatal ovarian tumours). Trong nghiên cứu, phụ nữ được điều trị thụ tinh ống nghiệm có khả năng mắc loại ung thư này gần như gấp đôi so với những phụ nữ không được kích thích buồng trứng để điều trị hiếm muộn.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu, cũng như nhiều tờ báo quốc gia của Vương quốc Anh đều nhấn mạnh rằng nguy cơ tổng thể mắc phải bất kỳ loại ung thư buồng trứng nào sau khi điều trị thụ tinh ống nghiệm vẫn còn rất thấp, chỉ 0,71%, so với 0,45% ở phụ nữ trong số dân số nói chung.
Là đồng tác giả nghiên cứu, Giáo sư Curt Burger cho biết: “Thông điệp chính là những phụ nữ đã từng được thụ tinh ống nghiệm không nên lo lắng vì tỷ lệ mắc ung thư buồng trứng trong nghiên cứu này là cực kỳ thấp”.
Nghiên cứu diễn ra trong khoảng 15 năm, gồm trên 19.000 phụ nữ đã trải qua thụ tinh ống nghiệm và hơn 6.000 phụ nữ hiếm muộn nhưng không điều trị bằng thụ tinh ống nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy phụ nữ được điều trị thụ tinh ống nghiệm có nguy cơ phát triển u buồng trứng giáp biên ác không gây tử vong gấp 1,9 lần so với phụ nữ trong dân số Hà Lan nói chung.
Giáo sư Flora van Leeuwen từ Viện Ung thư Hà Lan tại Amsterdam, người đứng đầu cuộc nghiên cứu, cho biết: “U buồng trứng giáp biên ác là những khối u có tiềm năng ác tính thấp, có nghĩa là chúng không gây tử vong, nhưng gây bệnh suất cao và cần được phẫu thuật rộng".
Giáo sư nói thêm: "Nếu chúng ta nhận thấy một phụ nữ đã được điều trị vài chu kỳ thụ tinh ống nghiệm hoặc được sử dụng liều lượng lớn các loại thuốc kích thích buồng trứng có nguy cơ ung thư buồng trứng cao, thì người phụ nữ này cần phải được thông báo về những rủi ro khi tiếp tục điều trị thụ tinh ống nghiệm, và có thể khuyên ngừng điều trị sau 3-6 chu kỳ".
Ung thư buồng trứng là loại ung thư được chẩn đoán phổ biến thứ năm ở phụ nữ ở Anh, với hơn 6.500 trường hợp mỗi năm. Khoảng 4.500 phụ nữ chết vì căn bệnh này mỗi năm vì bệnh thường được chẩn đoán ở giai đoạn rất muộn.
Theo tiến sĩ Claire Knight, chuyên viên về thông tin sức khỏe của trung tâm nghiên cứu ung thư Anh, số lượng tương đối nhỏ các trường hợp ung thư trong nghiên cứu khó có thể đưa ra được kết luận chắc chắn. Cô nhấn mạnh rằng các kết quả hiển nhiên không cho thấy IVF gây ra ung thư buồng trứng.
Tiến sĩ cho biết: “Phụ nữ có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng bằng cách không hút thuốc lá và kiểm soát cân nặng, và phụ nữ dùng thuốc ngừa thai hoặc mang thai cũng có nguy cơ thấp hơn”.
Nguồn: http://www.bionews.org.uk/page_110793.asp
Người dịch: Phạm Quốc BìnhThứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...