Theo Hiệp hội Y học sinh sản Hoa Kỳ (American Society for Reproductive Medicine - ASRM), có bốn chiến lược quan trọng có thể làm giảm nguy cơ sinh đa thai sau khi điều trị vô sinh.
Báo cáo của ASRM tại Hội nghị thường niên ở Orlando, Florida ngày 17 tháng 10 cho biết, trong điều kiện thích hợp, nên chuyển một phôi hơn là chuyển nhiều phôi, sử dụng gonadotropin liều thấp để kích thích buồng trứng, tránh hiện tượng đa phóng noãn, và thông tin cho bệnh nhân đầy đủ về các nguy hiểm của đa thai. Cụ thể, ASRM nhấn mạnh nên chuyển một phôi cho những bệnh nhân tiên lượng tốt.
Tiến sĩ Eric Widra, từ Trung tâm Sinh sản Shady Grove ở Washington, DC, đã điều hành ủy ban thực hành để ban hành các hướng dẫn này. Báo cáo toàn văn được đăng trực tuyến tại http://bit.ly/mPR6hS.
Phát biểu với tờ Reuters Health, tiến sĩ cho biết: "Đa thai có thể là nguyên nhân đe dọa sức khỏe của người mẹ và thai nhi như: tiền sản giật, đái tháo đường thai kỳ, sinh non và thậm chí tử vong. Với đội ngũ lâm sàng và bệnh nhân được đào tạo và chuẩn bị thích hợp, chúng ta có thể hạ thấp đáng kể tỷ lệ đa thai mà không ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sống".
Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ sinh đa thai vào năm 1980- trước khi thụ tinh trong ống nghiệm và các loại gonadotropin được phổ biến - là 1,9% tăng đều đặn đến 3,4% trong năm 2008.
Gần đây, theo dữ liệu từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh tật Hoa kỳ, tỷ lệ sinh đa thai đã giảm từ 0,193% năm 1998 xuống 0,148% năm 2008, nhưng tỷ lệ sinh đôi đã tăng từ 2,8% lên 3,26%.
Để giảm nguy cơ đa thai, Tiến sĩ Widra và nhóm của ông khuyến khích các bác sĩ nên chuyển một phôi ở những bệnh nhân có tiên lượng tốt. Phụ nữ tiên lượng tốt là những người dưới 35 tuổi, làm thụ tinh ống nghiệm lần đầu tiên và có phôi chất lượng tốt và có phôi trữ.
Khuyến cáo này một phần dựa trên một phân tích tổng hợp tám thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh chuyển một phôi và chuyển hai phôi ở 1367 phụ nữ. Tỷ lệ sinh sống và tỷ lệ sinh đa thai lần lượt là 27% và 2% ở nhóm chuyển một phôi và 42% và 29% ở nhóm chuyển hai phôi. Một phân tích tiếp cho thấy rằng việc chuyển đơn phôi lần 2 với phôi trữ tăng tỷ lệ sinh sống trong nhóm chuyển một phôi đến 38% và bù đắp sự khác biệt giữa hai nhóm.
Nghiên cứu này nhấn mạnh thuận lợi và nhược điểm của chuyển một phôi (SET) là có thể làm giảm tỷ lệ sinh đa thai, nhưng nó lại mất nhiều thời gian và tốn kém.
Các nhà nghiên cứu cũng khuyên rằng trong kích thích buồng trứng sử dụng liều thấp gonadotropins có thể có hiệu quả. Trong dữ liệu gộp từ chín nghiên cứu sử dụng liều thấp, tỷ lệ mang thai trung bình là 11,1% và tỷ lệ đa thai là 1% trên số chu kỳ bắt đầu điều trị.
Tuy nhiên, theo báo cáo này, cần một thử nghiệm lớn hơn để xác định tính hiệu quả chi phí của chiến lược này.
Đa phóng noãn có nguy cơ cao sinh đa thai. Nhóm nghiên cứu của tiến sĩ Widra đề nghị ngưng chu kỳ gây phóng noãn và chuyển sang thụ tinh ống nghiệm nếu bệnh nhân không đáp ứng với liều gonadotropins thấp.
Nhóm nghiên cứu của Tiến sĩ Widra kết luận rằng để giảm đa thai, nên ưu tiên giảm tỷ lệ sinh đôi, "xem xét nghiêm túc" việc chuyển một phôi cho những bệnh nhân phù hợp (miễn là có phôi trữ), và tư vấn đầy đủ cho bệnh nhân về những lợi ích và rủi ro của quá trình điều trị.
Nguồn: American Society for Reproductive Medicine (ASRM) 67th Annual Meeting
Bs VƯƠNG ĐÌNH HOÀNG DŨNG
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...