Theo công bố trực tuyến của các nhà nghiên cứu Pháp vào ngày 12/10 trên Tạp chí Nội tiết & Chuyển hóa Lâm sàng (Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism), ở hơn 1/4 phụ nữ bị suy buồng trứng sớm (SBTS) nguyên phát, buồng trứng có thể thỉnh thoảng hoạt động lại một cách ngắt quãng.
Tiến sĩ Philippe Touraine, thuộc Groupe Hospitalier Pitie-Salpetriere, Paris, cho biết: “Cần phải nhớ rằng SBTS không phải là mãn kinh hoàn toàn. Thông thường phụ nữ bị SBTS được cho là họ không còn khả năng thụ thai vì tình trạng của họ cũng tương tự như những phụ nữ hậu mãn kinh. Tuy nhiên, khả năng có thai trong trường hợp này là rất hiếm, do đó cũng cần tư vấn cho bệnh nhân rằng họ không nên chờ đợi việc thụ thai tự nhiên quá lâu trước khi quyết định xin trứng”.
SBTS xảy ra khoảng 1% phụ nữ dưới 40 tuổi , nhưng các nghiên cứu trước đây cho thấy sau khi được chẩn đoán SBTS, khoảng 11% - 40% phụ nữ có sự phóng noãn ngắt quãng và 3% đến 10% có thể có thai tự nhiên.
Touraine và các đồng nghiệp đã phân tích dữ liệu từ 369 phụ nữ SBTS nguyên phát để đưa ra yếu tố dự báo sự phục hồi chức năng buồng trứng dựa trên kết quả sàng lọc ban đầu.
Qua thời gian theo dõi trung bình 59 tháng, 86 phụ nữ (chiếm 24%) cho thấy buồng trứng có hoạt động lại ngắt quãng. 78 phụ nữ có phục hồi chu kì kinh nguyệt và 15 trong số họ có thai tự nhiên với 16 lần sinh sống, 1 trường hợp sinh đôi, 4 trường hợp sẩy thai và 1 trường hợp phá thai có chỉ định. Các thai kì xảy ra trong khoảng thời gian từ 1 đến 69 tháng sau chẩn đoán SBTS.
Các yếu tố dự báo được rút ra bao gồm tiền sử gia đình bị SBTS, vô kinh thứ phát, còn thấy được các nang qua siêu âm, và nồng độ inhibin B và estradiol.
Dựa trên phương trình dự báo này, những phụ nữ với số điểm thấp nhất (< 0,23) thì không có sự phục hồi chức năng buồng trứng sau 48 tháng, so với 83,3% phụ nữ có số điểm cao nhất (≥ 3,87).
“Trong số những yếu tố tiên đoán lâm sàng”, các nhà nghiên cứu ghi nhận, “vô kinh nguyên phát hoặc thứ phát dường như là yếu tố then chốt. Chỉ 2 bệnh nhân vô kinh nguyên phát cho thấy có sự phục hồi hoạt động buồng trứng, và cả hai đều có tình trạng cường androgen trên lâm sàng”.
Những nhà nghiên cứu nói thêm “tính chất dự báo trong chẩn đoán SBTS của nồng độ FSH, estradiol, và inhibin B đối với sự phục hồi hoạt động buồng trứng trong vòng 4 năm dường như liên quan nhiều nhất với thực tế rằng những chỉ số này phản ánh khả năng vẫn còn một phần hoạt động sinh sản của buồng trứng”.
Không may rằng phương trình dự báo trong nghiên cứu này vẫn chưa thể được sử dụng để tiên đoán phụ nữ nào bị SBTS sẽ có thai do số lượng các thai kì tự nhiên trong nhóm bệnh nhân quá ít, tiến sĩ Touraine cho biết.
Cuối cùng, ông nhấn mạnh một thông điệp cho các bác sĩ nhi khoa rằng trường hợp tồi tệ nhất là khi SBTS xảy ra ở những phụ nữ trẻ, dưới 20 tuổi có vô kinh nguyên phát; thật vậy, cơ may để có bất kì sự thay đổi nào trong nhóm này là cực kì thấp.
Nguồn: http://bit.ly/sIzy3r, J Clin Endocrinol Metab 2011.
Người dịch: Nguyễn Thị Ngọc Nhân
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...