Tin tức
on Monday 22-06-2020 9:06am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Huỳnh Trọng Kha - IVFMD Tân Bình
Từ năm 1943 đến nay, đông lạnh tinh trùng là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để bảo quản chúng trong thời gian dài (Michael Belenky và cs, 2020). Do đó, hiện nay, kỹ thuật này đang được sử dụng khá phổ biến nhằm bảo tồn khả năng sinh sản nam giới hoặc phục vụ mục đích điều trị (Anger và cs, 2003). Và có hai phương pháp trữ tinh trùng được sử dụng nhiều là đông lạnh chậm và thuỷ tinh hoá. Trong đó, đông lạnh chậm cổ điển là phương pháp phổ biến được sử dụng ở các ngân hàng tinh trùng trên toàn thế giới. Tuy nhiên, phương pháp yêu cầu tổng thể tích hỗn hợp môi trường khi đông lạnh lớn từ 0,25 đến 1 ml. Vì vậy, thể tích này là không phù hợp khi chỉ một vài tinh trùng được đông lạnh. Hiện nay, Berkovitz và cộng sự (2018) đã phát triển hệ thống thủy tinh hóa SpermVD® nhằm khắc phục những bất lợi trên, hỗ trợ cho quá trình đông lạnh. Tuy nhiên, việc chuyển từng con tinh trùng vào vi giọt SpermVD® sẽ dẫn đến hiện trạng những tinh trùng ban đầu tiếp xúc lâu với môi trường cân bằng của thủy tinh hóa. Cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào ghi nhận về khoảng thời gian phù hợp cho vấn đề này. Do đó, Michael Belenky và cộng sự (2020) thực hiện một nghiên cứu với mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của các khung thời gian khi tinh trùng ở trong dung dịch cân bằng trước thủy tinh hóa.
Nghiên cứu tiến hành vào năm 2018, trên 2925 tinh trùng từ 20 bệnh nhân có kết quả tinh dịch đồ từ bình thường đến thiểu tinh nhẹ (theo chuẩn WHO 2010). Tinh trùng được chia thành các nhóm đông lạnh trên SpermVD® với thể tích giọt 1 µl/giọt (chất bảo quản / môi trường rửa theo tỉ lệ 1: 1 v/v) trong thời gian ở môi trường cân bằng thay đổi trong khoảng 2-60 phút.
Kết quả thu được như sau:
Từ năm 1943 đến nay, đông lạnh tinh trùng là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để bảo quản chúng trong thời gian dài (Michael Belenky và cs, 2020). Do đó, hiện nay, kỹ thuật này đang được sử dụng khá phổ biến nhằm bảo tồn khả năng sinh sản nam giới hoặc phục vụ mục đích điều trị (Anger và cs, 2003). Và có hai phương pháp trữ tinh trùng được sử dụng nhiều là đông lạnh chậm và thuỷ tinh hoá. Trong đó, đông lạnh chậm cổ điển là phương pháp phổ biến được sử dụng ở các ngân hàng tinh trùng trên toàn thế giới. Tuy nhiên, phương pháp yêu cầu tổng thể tích hỗn hợp môi trường khi đông lạnh lớn từ 0,25 đến 1 ml. Vì vậy, thể tích này là không phù hợp khi chỉ một vài tinh trùng được đông lạnh. Hiện nay, Berkovitz và cộng sự (2018) đã phát triển hệ thống thủy tinh hóa SpermVD® nhằm khắc phục những bất lợi trên, hỗ trợ cho quá trình đông lạnh. Tuy nhiên, việc chuyển từng con tinh trùng vào vi giọt SpermVD® sẽ dẫn đến hiện trạng những tinh trùng ban đầu tiếp xúc lâu với môi trường cân bằng của thủy tinh hóa. Cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào ghi nhận về khoảng thời gian phù hợp cho vấn đề này. Do đó, Michael Belenky và cộng sự (2020) thực hiện một nghiên cứu với mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của các khung thời gian khi tinh trùng ở trong dung dịch cân bằng trước thủy tinh hóa.
Nghiên cứu tiến hành vào năm 2018, trên 2925 tinh trùng từ 20 bệnh nhân có kết quả tinh dịch đồ từ bình thường đến thiểu tinh nhẹ (theo chuẩn WHO 2010). Tinh trùng được chia thành các nhóm đông lạnh trên SpermVD® với thể tích giọt 1 µl/giọt (chất bảo quản / môi trường rửa theo tỉ lệ 1: 1 v/v) trong thời gian ở môi trường cân bằng thay đổi trong khoảng 2-60 phút.
Kết quả thu được như sau:
- Tỉ lệ thu hồi sau đông lạnh là 95% (2785/2925) và tỉ lệ di động tiến tới đạt 32% (896/2785).
- Tốc độ di động tiến tới cao nhất ở nhóm 8 phút trong môi trường cân bằng (P=0.03). Từ 10 phút trở đi, khả năng di động tinh trùng giảm và có sự tương quan thuận với thời gian tiếp xúc tinh trùng với môi trường cân bằng (P<0.05).
- Không có sự tương quan giữa mật độ tinh trùng trước đông lạnh và khả năng di động sau rã đông (P>0.05).
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, thời gian tối ưu tinh trùng trong môi trường cân bằng trước thủy tinh hóa là không quá 8 phút. Nghiên cứu giúp củng cố tư liệu trong xây dựng quy trình đông lạnh tinh trùng số lượng ít, đặc biệt như tinh trùng thủ thuật (MicroTese, PESA, TESE, …) hoặc cryptozoospermia.
Nguồn: Belenky, M., Itzhakov, D., Freger, V., Roseman, O., Abehsera, S., Miller, N., & Berkovitz, A. (2020). Optimizing the protocol for vitrification of individual spermatozoa by adjusting equilibration time. Systems Biology in Reproductive Medicine, 1–6.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Kết quả lâm sàng của phôi có nguồn gốc từ hợp tử 1PN - Ngày đăng: 17-06-2020
Mối tương quan giữa chất lượng phôi và độ dày nội mạc tử cung đến tỉ lệ làm tổ ở chu kì IVF tự nhiên - Ngày đăng: 17-06-2020
Đánh giá kết quả lâm sàng và di truyền khi chuyển phôi từ hợp tử 0PN - Ngày đăng: 17-06-2020
Kết cục thai kỳ ở những bệnh nhân xin tinh trùng vì thất bại ICSI nhiều lần - Ngày đăng: 17-06-2020
Nghiên cứu cắt ngang về những yếu tố liên quan đến trầm cảm trước sinh ở phụ nữ mang thai tại Việt Nam - Ngày đăng: 16-06-2020
MicroRNA trong môi trường nuôi cấy đã qua sử dụng và trong tinh trùng có liên quan đến chất lượng phôi và kết quả thai - Ngày đăng: 15-06-2020
Mối tương quan giữa nồng độ progesterone trước ngày chuyển phôi trữ với tỉ lệ sinh sống - Ngày đăng: 15-06-2020
Thực hành Yoga, thiền tập và châm cứu có liên quan đến cải thiện sức khoẻ sinh sản nam giới - Ngày đăng: 19-06-2020
Đỉnh FSH tại thời điểm tiêm HCG có cải thiện kết cục IVF/ICSI hay không? - Ngày đăng: 15-06-2020
Ảnh hưởng của rối loạn giấc ngủ đến sự khởi phát xung LH ở pha nang noãn muộn ở những người mắc hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 15-06-2020
Hội chứng tinh trùng không đầu ở nam giới vô sinh - Ngày đăng: 15-06-2020
Hướng dẫn về thai bám sẹo mổ lấy thai từ SMFM - Ngày đăng: 15-06-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK