Tin tức
on Monday 15-06-2020 2:09pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Hữu Duy – IVF Vạn Hạnh
Trong thụ tinh trong ống nghiệm, việc lựa chọn tinh trùng và phôi hiện tại chủ yếu vẫn dựa vào hình dạng bên ngoài. Mặc dù việc đánh giá hình dạng đã có nhiều cải tiến nhằm tăng độ chính xác, phương pháp này vẫn tồn tại những hạn chế cố hữu và cần có sự hỗ trợ thêm của những phương pháp khác. Đánh giá hàm lượng microRNA (miRNA) là một trong những phương pháp triển vọng giúp tăng độ chính xác của phương pháp đánh giá hình dạng. Sự thay đổi nồng độ miRNA có liên quan đến nhiều quá trình sinh học khác nhau, bao gồm cả sự sinh sản. Cụ thể, miRNA đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh sự sinh tinh và duy trì các chức năng cơ bản của tinh trùng. Trong quá trình thụ tinh, tinh trùng cung cấp các loại RNA khác nhau, bao gồm cả miRNA vào tế bào noãn. Các miRNA được đưa vào tế bào noãn được cho là rất quan trọng trong quá trình thụ tinh và tạo phôi. Hiện tại, có rất ít nghiên cứu kiểm tra các hàm lượng của miRNA trong môi trường nuôi cấy đã qua sử dụng, nhưng hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy chất lượng và tiềm năng phát triển của phôi có tương quan với mức độ hàm lượng miRNA. Trong quá trình phát triển, phôi giải phóng axit nucleic bao gồm RNA và miRNA vào môi trường xung quanh. Những phân tử được tiết ra này có thể phản ánh các đặc điểm bên trong của phôi và có thể là dấu hiệu cho tiềm năng phát triển thành thai của phôi. Gần đây, các miRNA có trong tinh trùng người đã được phát hiện trong môi trường nuôi cấy đã qua sử dụng (spent culture medium – SCM) của phôi tiền làm tổ. Trong nghiên cứu hiện tại, Masood và cộng sự (2019) đã tiến hành xác định hàm lượng của miRNA trong tinh trùng người kết hợp với miRNA trong SCM và phân tích mức độ hiện diện của miRNA trong SCM có liên quan đến chất lượng phôi và kết quả thai hay không.
Nghiên cứu bao gồm 61 cặp vợ chồng hiếm muộn được điều trị bằng kỹ thuật ICSI. Phôi được chia thành 5 loại từ G1 đến G5 với chất lượng giảm dần. Trong đó, phôi G1 được sử dụng để chuyển phôi, phôi G2 và G3 không được sử dụng để chuyển phôi mà chỉ được sử dụng để lấy mẫu môi trường nuôi cấy. Phôi được chuyển vào ngày 3 và các mẫu SCM cũng được thu nhận vào cùng ngày. Mỗi bệnh nhân sẽ được lấy 7 mẫu bao gồm: 1 mẫu tinh trùng, 3 mẫu SCM của phôi G1 và 3 mẫu SCM của phôi G2 hoặc G3. RNA trong mẫu được phân tích bằng kỹ thuật qPCR phiên mã ngược. Các kết quả nghiên cứu chính bao gồm hàm lượng miRNA trong các mẫu SCM kết hợp của các loại phôi khác nhau và trong các mẫu tinh trùng có liên quan đến kết quả thai.
Trong số 372 miRNA được sàng lọc, miR-19b-3p và let-7a-5p được phát hiện trong tất cả các mẫu SCM và tinh trùng. Hàm lượng miRNA có sự thay đổi đáng kể giữa SCM của phôi với chất lượng khác nhau (loại G1, G2 và G3). Cụ thể, lượng miR-320a và miR-15a-5p có sự khác biệt nhiều ở G1 so với G2, miR-21-5p ở G1 so với G3 và miR-20a-5p ở G2 so với G3. Hàm lượng của miRNA trong các SCM kết hợp và miRNA có nguồn gốc tinh trùng cũng có sự thay đổi đáng kể giữa các kết quả thai khác nhau. MiR-19b-3p cho giá trị AUC (area under the receiver operating characteristic curve) cao nhất giữa kết quả dương tính và âm tính, với hàm lượng thấp hơn trong cả các mẫu SCM kết hợp và mẫu tinh trùng liên quan với kết quả thai dương tính. MiR-320a, miR-15a-5p, miR-21-5p và miR-20a-5p cho kết quả giống nhau trong các mẫu SCM kết hợp.
Như vậy, hàm lượng của miRNA trong các mẫu SCM kết hợp và tinh trùng khác nhau đáng kể tùy thuộc vào chất lượng phôi và kết quả mang thai. Trong đó, miR-19b-3p có thể đóng vai trò là dấu ấn sinh học tiềm năng để dự đoán kết quả thai.
Nguồn: MicroRNAs in combined spent culture media and sperm are associated with embryo quality and pregnancy outcome. Abu-Halima, Masood et al. Fertility and Sterility, Volume 113, Issue 5, 970 - 980.e2
Nghiên cứu bao gồm 61 cặp vợ chồng hiếm muộn được điều trị bằng kỹ thuật ICSI. Phôi được chia thành 5 loại từ G1 đến G5 với chất lượng giảm dần. Trong đó, phôi G1 được sử dụng để chuyển phôi, phôi G2 và G3 không được sử dụng để chuyển phôi mà chỉ được sử dụng để lấy mẫu môi trường nuôi cấy. Phôi được chuyển vào ngày 3 và các mẫu SCM cũng được thu nhận vào cùng ngày. Mỗi bệnh nhân sẽ được lấy 7 mẫu bao gồm: 1 mẫu tinh trùng, 3 mẫu SCM của phôi G1 và 3 mẫu SCM của phôi G2 hoặc G3. RNA trong mẫu được phân tích bằng kỹ thuật qPCR phiên mã ngược. Các kết quả nghiên cứu chính bao gồm hàm lượng miRNA trong các mẫu SCM kết hợp của các loại phôi khác nhau và trong các mẫu tinh trùng có liên quan đến kết quả thai.
Trong số 372 miRNA được sàng lọc, miR-19b-3p và let-7a-5p được phát hiện trong tất cả các mẫu SCM và tinh trùng. Hàm lượng miRNA có sự thay đổi đáng kể giữa SCM của phôi với chất lượng khác nhau (loại G1, G2 và G3). Cụ thể, lượng miR-320a và miR-15a-5p có sự khác biệt nhiều ở G1 so với G2, miR-21-5p ở G1 so với G3 và miR-20a-5p ở G2 so với G3. Hàm lượng của miRNA trong các SCM kết hợp và miRNA có nguồn gốc tinh trùng cũng có sự thay đổi đáng kể giữa các kết quả thai khác nhau. MiR-19b-3p cho giá trị AUC (area under the receiver operating characteristic curve) cao nhất giữa kết quả dương tính và âm tính, với hàm lượng thấp hơn trong cả các mẫu SCM kết hợp và mẫu tinh trùng liên quan với kết quả thai dương tính. MiR-320a, miR-15a-5p, miR-21-5p và miR-20a-5p cho kết quả giống nhau trong các mẫu SCM kết hợp.
Như vậy, hàm lượng của miRNA trong các mẫu SCM kết hợp và tinh trùng khác nhau đáng kể tùy thuộc vào chất lượng phôi và kết quả mang thai. Trong đó, miR-19b-3p có thể đóng vai trò là dấu ấn sinh học tiềm năng để dự đoán kết quả thai.
Nguồn: MicroRNAs in combined spent culture media and sperm are associated with embryo quality and pregnancy outcome. Abu-Halima, Masood et al. Fertility and Sterility, Volume 113, Issue 5, 970 - 980.e2
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối tương quan giữa nồng độ progesterone trước ngày chuyển phôi trữ với tỉ lệ sinh sống - Ngày đăng: 15-06-2020
Thực hành Yoga, thiền tập và châm cứu có liên quan đến cải thiện sức khoẻ sinh sản nam giới - Ngày đăng: 19-06-2020
Đỉnh FSH tại thời điểm tiêm HCG có cải thiện kết cục IVF/ICSI hay không? - Ngày đăng: 15-06-2020
Ảnh hưởng của rối loạn giấc ngủ đến sự khởi phát xung LH ở pha nang noãn muộn ở những người mắc hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 15-06-2020
Hội chứng tinh trùng không đầu ở nam giới vô sinh - Ngày đăng: 15-06-2020
Hướng dẫn về thai bám sẹo mổ lấy thai từ SMFM - Ngày đăng: 15-06-2020
Vai trò của siêu âm doppler trong dự đoán kết cục thai kỳ trong thai giới hạn tăng trưởng khởi phát muộn - Ngày đăng: 08-06-2020
Một nghiên cứu đoàn hệ đánh giá SARS-CoV-2 trong mẫu tinh dịch ở người - Ngày đăng: 08-06-2020
Nguy cơ sinh non ở nhóm thai phụ ở tuổi thai 23 – 28 tuần có chiều dài kênh cổ tử cung ngắn (≤25 mm) - Ngày đăng: 08-06-2020
So sánh tỉ lệ hình thành phôi nang từ kỹ thuật IVF cổ điển và ICSI - Ngày đăng: 08-06-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK