Tin tức
on Monday 08-06-2020 9:18am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trịnh Thị Thùy Trang – IVF Vạn Hạnh
Virus papilloma ở người (HPV) là bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất ở nam và nữ. Một số trường hợp nhiễm trùng liên quan đến HPV không có triệu chứng rõ ràng hoặc có thể gây mụn cóc sinh dục lành tính. Một số subtypes của HPV là yếu tố căn nguyên chính thúc đẩy sự phát triển của ung thư cổ tử cung, miệng, dương vật và hậu môn. Virus thường tấn công mạnh trong độ tuổi từ 15 đến 24, và nguy cơ lây nhiễm tăng theo số lượng bạn tình.
Lây truyền HPV thường xảy ra trước hoặc trong độ tuổi sinh sản của bệnh nhân. Do đó, các nghiên cứu đã điều tra tác động của nhiễm HPV đối với khả năng sinh sản. Mặc dù có bằng chứng hạn chế liên quan đến nhiễm HPV với vô sinh nữ, một số nghiên cứu cho thấy rằng nhiễm HPV hiện tại phổ biến hơn ở những người đàn ông vô sinh so với những người đồng lứa có khả năng sinh sản. Điều tra về nhiễm HPV đã cung cấp thông tin để giúp ích thêm cho chẩn đoán khi đánh giá vô sinh nam.
Weinberg và cs đã thực hiện đánh giá hệ thống và phân tích gộp tác động của HPV lên các thông số tinh dịch và kết quả sau hỗ trợ sinh sản (ART). Nhóm tác giả đã xác định 16 nghiên cứu (3.718 nam giới) đánh giá tác động của HPV đến chất lượng tinh trùng và đã chứng minh rằng nhiễm HPV đồng thời làm giảm mật độ tinh trùng, độ di động và ảnh hưởng đến hình dạng tinh trùng trong phân tích gộp. Weinberg và cs cũng đã xem xét bốn nghiên cứu đánh giá tác động của nhiễm HPV đối với kết quả điều trị ART và cho thấy việc nhiễm HPV không ảnh hưởng đến tỷ lệ mang thai nhưng có một số nghiên cứu lưu ý về nguy cơ sẩy thai tăng lên ở các cặp vợ chồng mà người chồng bị nhiễm HPV.
Khi tiếp cận các nghiên cứu đánh giá các thông số tinh dịch, độc giả phải xem xét liệu những thay đổi này có ý nghĩa lâm sàng hay không. Các nghiên cứu về các yếu tố môi trường, truyền nhiễm và lối sống đều mang lại một số bằng chứng về sự suy giảm các thông số tinh dịch, nhưng những điều này không liên quan đến tình trạng sinh sản. Tác giả chứng minh rằng mật độ tinh trùng, khả năng di động của tinh trùng và hình thái tinh trùng đều thấp hơn về mặt thống kê khi tinh dịch nhiễm HPV tại thời điểm phân tích khả năng sinh sản. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là những khác biệt này có thể không có ý nghĩa lâm sàng. Nghiên cứu của Weinberg và cs phân tích phân nhóm đánh giá xem liệu đàn ông mắc bệnh oligospermia có nhiều khả năng bị nhiễm HPV đồng thời hay không và kết quả cho thấy không có mối quan hệ giữa oligospermia và nhiễm HPV. Vì vậy, nhiễm HPV không có liên quan đến sự suy giảm đáng kể về mặt lâm sàng về phương diện mật độ tinh trùng. Khả năng di động của tinh trùng dường như bị ảnh hưởng đáng kể bởi nhiễm HPV (<32% di động tiến tới). Do đó, có thể nhiễm HPV ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng di động đến mức có thể làm suy giảm khả năng sinh sản.
Cuối cùng, số lượng nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của HPV đến kết quả sinh sản còn ít, chỉ có bốn nghiên cứu trong phân tích gộp báo cáo tỷ lệ mang thai hoặc tỷ lệ sẩy thai ở các cặp vợ chồng trải qua chu kỳ IVF hoặc ICSI. Không có tác động nào được chứng minh giữa nhiễm HPV và khả năng thụ thai, nhưng tỷ lệ sẩy thai cao hơn đã được tìm thấy. Tuy nhiên, đây vẫn là một mẫu tương đối nhỏ. Các nghiên cứu dài hạn trong tương lai đánh giá kết quả mang thai so sánh nam giới có và không bị nhiễm HPV sẽ cần thiết để làm rõ hơn tác động của việc nhiễm loại virus này ở nam giới đối với kết quả sinh sản ở các cặp vợ chồng trải qua điều trị ART.
Hơn nữa, việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tinh dịch để đưa ra các phương pháp điều trị tiềm năng khắc phục các yếu tố đó. Trong trường hợp này, nhiễm HPV có thể được ngăn chặn (hoặc có khả năng được điều trị) bằng cách tiêm vắc-xin HPV hai liều. Hiện tại, khuyến cáo tiêm chủng HPV cho tất cả trẻ em trong độ tuổi từ 11 đến 26 tuổi. Vào tháng 8 năm 2019, khuyến nghị của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh đã thay đổi, việc tiêm vắc-xin HPV được khuyến nghị cho tất cả những người từ 26 tuổi trở lên. Garolla và cộng sự đã công bố một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 151 cặp vợ chồng vô sinh trong đó nam giới nhiễm HPV. Trong 151 người đàn ông, 79 người chấp nhận tiêm vắc-xin HPV trong khi 72 người chọn không tham gia tiêm chủng. Sau 1 năm, tỷ lệ nhiễm virus trong tinh dịch đã giảm từ 100% xuống 70,8% ở nhóm đối chứng, trong khi đó, tỷ lệ nhiễm virus trong tinh dịch đã giảm từ 100% xuống còn 10,1% ở những người đàn ông đã tiêm vắc-xin HPV. Điều đặc biệt là có tới 38,9% các cặp vợ chồng trong nhóm tiêm chủng HPV mang thai trong khi nhóm đối chứng chỉ có 15,3% (một sự khác biệt có ý nghĩa thống kê và lâm sàng). Nghiên cứu này sẽ cần được xác nhận trong các thử nghiệm tương lai, nhưng đây là cơ sở ban đầu chứng minh rằng HPV có thể tác động tiêu cực đến khả năng sinh sản của nam giới nhưng việc tiêm vắc-xin HPV (ngay cả sau khi nhiễm bệnh) có thể cải thiện kết quả sinh sản.
Nguồn: Human papilloma virus: to what degree does this sexually transmitted infection affect male fertility? https://www.fertstert.org/article/S0015-0282(20)30089-3/fulltext
Virus papilloma ở người (HPV) là bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất ở nam và nữ. Một số trường hợp nhiễm trùng liên quan đến HPV không có triệu chứng rõ ràng hoặc có thể gây mụn cóc sinh dục lành tính. Một số subtypes của HPV là yếu tố căn nguyên chính thúc đẩy sự phát triển của ung thư cổ tử cung, miệng, dương vật và hậu môn. Virus thường tấn công mạnh trong độ tuổi từ 15 đến 24, và nguy cơ lây nhiễm tăng theo số lượng bạn tình.
Lây truyền HPV thường xảy ra trước hoặc trong độ tuổi sinh sản của bệnh nhân. Do đó, các nghiên cứu đã điều tra tác động của nhiễm HPV đối với khả năng sinh sản. Mặc dù có bằng chứng hạn chế liên quan đến nhiễm HPV với vô sinh nữ, một số nghiên cứu cho thấy rằng nhiễm HPV hiện tại phổ biến hơn ở những người đàn ông vô sinh so với những người đồng lứa có khả năng sinh sản. Điều tra về nhiễm HPV đã cung cấp thông tin để giúp ích thêm cho chẩn đoán khi đánh giá vô sinh nam.
Weinberg và cs đã thực hiện đánh giá hệ thống và phân tích gộp tác động của HPV lên các thông số tinh dịch và kết quả sau hỗ trợ sinh sản (ART). Nhóm tác giả đã xác định 16 nghiên cứu (3.718 nam giới) đánh giá tác động của HPV đến chất lượng tinh trùng và đã chứng minh rằng nhiễm HPV đồng thời làm giảm mật độ tinh trùng, độ di động và ảnh hưởng đến hình dạng tinh trùng trong phân tích gộp. Weinberg và cs cũng đã xem xét bốn nghiên cứu đánh giá tác động của nhiễm HPV đối với kết quả điều trị ART và cho thấy việc nhiễm HPV không ảnh hưởng đến tỷ lệ mang thai nhưng có một số nghiên cứu lưu ý về nguy cơ sẩy thai tăng lên ở các cặp vợ chồng mà người chồng bị nhiễm HPV.
Khi tiếp cận các nghiên cứu đánh giá các thông số tinh dịch, độc giả phải xem xét liệu những thay đổi này có ý nghĩa lâm sàng hay không. Các nghiên cứu về các yếu tố môi trường, truyền nhiễm và lối sống đều mang lại một số bằng chứng về sự suy giảm các thông số tinh dịch, nhưng những điều này không liên quan đến tình trạng sinh sản. Tác giả chứng minh rằng mật độ tinh trùng, khả năng di động của tinh trùng và hình thái tinh trùng đều thấp hơn về mặt thống kê khi tinh dịch nhiễm HPV tại thời điểm phân tích khả năng sinh sản. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là những khác biệt này có thể không có ý nghĩa lâm sàng. Nghiên cứu của Weinberg và cs phân tích phân nhóm đánh giá xem liệu đàn ông mắc bệnh oligospermia có nhiều khả năng bị nhiễm HPV đồng thời hay không và kết quả cho thấy không có mối quan hệ giữa oligospermia và nhiễm HPV. Vì vậy, nhiễm HPV không có liên quan đến sự suy giảm đáng kể về mặt lâm sàng về phương diện mật độ tinh trùng. Khả năng di động của tinh trùng dường như bị ảnh hưởng đáng kể bởi nhiễm HPV (<32% di động tiến tới). Do đó, có thể nhiễm HPV ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng di động đến mức có thể làm suy giảm khả năng sinh sản.
Cuối cùng, số lượng nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của HPV đến kết quả sinh sản còn ít, chỉ có bốn nghiên cứu trong phân tích gộp báo cáo tỷ lệ mang thai hoặc tỷ lệ sẩy thai ở các cặp vợ chồng trải qua chu kỳ IVF hoặc ICSI. Không có tác động nào được chứng minh giữa nhiễm HPV và khả năng thụ thai, nhưng tỷ lệ sẩy thai cao hơn đã được tìm thấy. Tuy nhiên, đây vẫn là một mẫu tương đối nhỏ. Các nghiên cứu dài hạn trong tương lai đánh giá kết quả mang thai so sánh nam giới có và không bị nhiễm HPV sẽ cần thiết để làm rõ hơn tác động của việc nhiễm loại virus này ở nam giới đối với kết quả sinh sản ở các cặp vợ chồng trải qua điều trị ART.
Hơn nữa, việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tinh dịch để đưa ra các phương pháp điều trị tiềm năng khắc phục các yếu tố đó. Trong trường hợp này, nhiễm HPV có thể được ngăn chặn (hoặc có khả năng được điều trị) bằng cách tiêm vắc-xin HPV hai liều. Hiện tại, khuyến cáo tiêm chủng HPV cho tất cả trẻ em trong độ tuổi từ 11 đến 26 tuổi. Vào tháng 8 năm 2019, khuyến nghị của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh đã thay đổi, việc tiêm vắc-xin HPV được khuyến nghị cho tất cả những người từ 26 tuổi trở lên. Garolla và cộng sự đã công bố một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 151 cặp vợ chồng vô sinh trong đó nam giới nhiễm HPV. Trong 151 người đàn ông, 79 người chấp nhận tiêm vắc-xin HPV trong khi 72 người chọn không tham gia tiêm chủng. Sau 1 năm, tỷ lệ nhiễm virus trong tinh dịch đã giảm từ 100% xuống 70,8% ở nhóm đối chứng, trong khi đó, tỷ lệ nhiễm virus trong tinh dịch đã giảm từ 100% xuống còn 10,1% ở những người đàn ông đã tiêm vắc-xin HPV. Điều đặc biệt là có tới 38,9% các cặp vợ chồng trong nhóm tiêm chủng HPV mang thai trong khi nhóm đối chứng chỉ có 15,3% (một sự khác biệt có ý nghĩa thống kê và lâm sàng). Nghiên cứu này sẽ cần được xác nhận trong các thử nghiệm tương lai, nhưng đây là cơ sở ban đầu chứng minh rằng HPV có thể tác động tiêu cực đến khả năng sinh sản của nam giới nhưng việc tiêm vắc-xin HPV (ngay cả sau khi nhiễm bệnh) có thể cải thiện kết quả sinh sản.
Nguồn: Human papilloma virus: to what degree does this sexually transmitted infection affect male fertility? https://www.fertstert.org/article/S0015-0282(20)30089-3/fulltext
Từ khóa: HPV, vô sinh nam, ART, vắc-xin HPV
Các tin khác cùng chuyên mục:
Có phải trẻ em sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm có kết quả học tập tiểu học kém hơn so với trẻ em được sinh ra từ thai tự nhiên? - Ngày đăng: 08-06-2020
BỔ SUNG GDF9 VÀ TẾ BÀO CUMULUS VÀO MÔI TRƯỜNG IVM GIÚP TĂNG KHẢ NĂNG SỐNG CỦA PHÔI NANG - Ngày đăng: 08-06-2020
Sử dụng chất chống oxy hóa có thể làm giảm ảnh hưởng tiêu cực của Etoposide lên dna tinh trùng trong quá trình điều trị ung thư - Ngày đăng: 04-06-2020
So sánh hai phương pháp đo stress oxy hóa và mối quan hệ của hai phương pháp với phân mảnh dna tinh trùng và thông số tinh dịch - Ngày đăng: 04-06-2020
Tác dụng chống oxy hóa của Penicillamine với stress oxy hóa ở tinh trùng người - Ngày đăng: 04-06-2020
Có nên chỉ định thực hiện ICSI cho những bệnh nhân dị dạng tinh trùng? - Ngày đăng: 02-06-2020
Phân tích hình dạng tinh trùng người bằng điện thoại thông minh kết hợp với thuật toán học sâu - Ngày đăng: 02-06-2020
Tính nhất quán và khách quan của việc đánh giá phôi tự động bằng cách sử dụng mạng lưới thần kinh sâu - Ngày đăng: 02-06-2020
Điều trị dự phòng thuyên tắc mạch ở thai phụ nghi nhiễm sars-cov-2: tiêu chí quản lý trên lâm sàng - Ngày đăng: 02-06-2020
Tìm thấy bằng chứng rối loạn tưới máu bánh nhau ở thai phụ mắc Covid-19 - Ngày đăng: 02-06-2020
Tiên đoán chất lượng tinh trùng bằng mạng lưới thần kinh nhân tạo - Ngày đăng: 25-05-2020
Dựa vào thuật toán Deep learning để lựa chọn tinh trùng với tính nguyên vẹn DNA cao - Ngày đăng: 25-05-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK