Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 08-06-2020 9:12am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
Nguyễn Thị Cẩm Nhung – IVFMD Tân Bình

Trong quá trình kích thích buồng trứng, khoảng 15% noãn chưa trưởng thành dừng lại ở giai đoạn túi mầm (GV) hoặc metaphase I (MI). Kỹ thuật nuôi trưởng thành in vitro (IVM) những noãn này có thể làm tăng cơ hội hình thành phôi, đặc biệt là đối với những bệnh nhân đáp ứng kém với kích thích buồng trứng. Ngoài ra, kỹ thuật IVM đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế hội chứng quá kích buồng trứng đối với các bệnh nhân PCOS.



Mặc dù chất lượng noãn quyết định phần lớn đến chất lượng phôi, nhưng những thay đổi trong môi trường nuôi cấy in vitro cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi. Trong những năm gần đây, việc đồng nuôi cấy noãn non với tế bào cumulus và các yếu tố tăng trưởng nhằm tăng khả năng phát triển của noãn bào đã được áp dụng. Zhu và cộng sự đã cho thấy việc nuôi cấy noãn chưa trưởng thành với tế bào cumulus làm tăng khả năng tống xuất thể cực lên 10% trong vòng 24 giờ. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này tỉ lệ hình thành phôi vẫn còn thấp.

GDF9 (Growth differentiation factor 9) là một trong những yếu tố tăng trưởng được tiết ra từ tế bào noãn trong quá trình phát triển nang sơ cấp. Yếu tố này ảnh hưởng đến cả giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của sự phát triển nang noãn. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng GDF9 có vai trò trong việc cảm ứng phân bào của các tế bào hạt để ức chế biểu hiện thụ thể FSH, cảm ứng sản xuất β-inhibin. Ngoài ra, GDF9 cũng có thể kích thích sự phát triển và giãn nở của các tế bào cumulus [13].

Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung GDF9 và tế bào cumulus (CC) trong môi trường IVM đối với tốc độ hình thành và khả năng sống của phôi nang. Tổng cộng có 80 noãn GV từ các chu kỳ kích thích được nuôi cấy trong môi trường IVM. Các noãn này được chia thành bốn nhóm và nuôi cấy trong 24h. 
-          Nhóm I nuôi trong môi trường IVM cơ bản – nhóm đối chứng,
-          Nhóm II bao gồm IVM + CC,
-          Nhóm III bao gồm IVM + GDF9 (200 ng / mL)
-          Nhóm IV bao gồm IVM + CC + GDF9 (200 ng / mL).

Noãn trưởng thành (MII) sẽ được ICSI và nuôi đến giai đoạn phôi phân cắt. Những phôi chất lượng tốt được thủy tinh hóa, sau đó được rã đông và nuôi cấy thêm ba ngày để đánh giá tỉ lệ hình thành và tỉ lệ sống của phôi nang.

Kết quả: tỉ lệ noãn trưởng thành không khác biệt đáng kể giữa bốn nhóm. Tỷ lệ thụ tinh ở nhóm II cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (76,5% và 46,2%). Sự hình thành phôi cao hơn đáng kể ở tất cả các nhóm thử nghiệm so với nhóm đối chứng, trong khi sự hình thành phôi nang không có sự khác biệt trong ba nhóm thử nghiệm so với nhóm đối chứng. Tỷ lệ sống trung bình ở các nhóm II, III và IV lần lượt là 58,16%, 55,91% và 55,95% so với 37,78% ở nhóm đối chứng (p <0,05).

Như vậy, việc bổ sung GDF9 và CC vào môi trường IVM làm tăng khả năng thụ tinh, hình thành phôi và tỷ lệ sống của phôi nang được tạo ra từ phôi phân cắt sau khi thủy tinh hóa.

Nguồn: Chatroudi, M. H., Khalili, M. A., Ashourzadeh, S., Anbari, F., Shahedi, A., Safari, S. J. C., & Medicine, E. R. (2019). Growth differentiation factor 9 and cumulus cell supplementation in in vitro maturation culture media enhances the viability of human blastocysts. 46(4), 166. 

Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK