Tin tức
on Monday 08-06-2020 9:16am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trịnh Thị Thùy Trang – IVF Vạn Hạnh
Bên cạnh rất nhiều nghiên cứu so sánh về kết quả thai kỳ bất lợi và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh được sinh ra từ phương pháp hỗ trợ sinh sản (ART) với trẻ em được thụ thai một cách tự nhiên, một số nhà nghiên cứu đã theo dõi và đánh giá kết quả sức khỏe lâu dài. Tuy nhiên chỉ có số ít nghiên cứu khảo sát về học tập và phát triển của trẻ.
Luke và cs (2020) liên kết dữ liệu của Hội hỗ trợ sinh sản - Hệ thống báo cáo kết quả lâm sàng (SART-CORS) với giấy khai sinh Texas và kết quả kiểm tra thành tích học tập cho trẻ từ 8 đến 9 tuổi. Luke và cs nhận thấy rằng trẻ em được thụ thai bằng IVF đạt điểm tương đương hoặc cao hơn so với trẻ em được thụ thai một cách tự nhiên trong các bài kiểm tra thành tích đọc và toán học tiêu chuẩn ở độ tuổi 8 đến 9. Kết quả tương tự đối với cặp song sinh. Điều quan trọng cần lưu ý là trẻ em trong chương trình giáo dục đặc biệt hoặc có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế đã bị loại khỏi nghiên cứu.
Nghiên cứu này, cùng với những nghiên cứu khác kiểm tra tỷ lệ tử vong và dị tật bẩm sinh, làm tăng thêm sự hiểu biết về sức khỏe và kết quả phát triển của trẻ em được thụ thai bằng IVF, tuy nhiên còn nhiều câu hỏi đặt ra. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học có khác nhau không, hay có sự khác biệt trong việc duy trì điểm số? Có sự khác biệt về tỷ lệ khuyết tật phát triển (ví dụ, bại não, thiếu chú ý với rối loạn tăng động và rối loạn phổ tự kỷ), hoặc các bệnh mãn tính, kiểm soát đa số và các yếu tố nhân khẩu - xã hội khác? Các nghiên cứu kết hợp như mô hình sinh thái xã hội có thể phân tích sự đóng góp của các yếu tố cha mẹ - con cái, gia đình và môi trường xã hội để đánh giá kết quả giáo dục, nhưng điều này đòi hỏi phải thu thập dữ liệu bổ sung từ cha mẹ và gia đình cũng như một chiến lược phân tích cụ thể hơn.
Nghiên cứu trong tương lai kiểm tra kết quả lâu dài ở trẻ em được thụ thai bằng ART nên được dựa trên các phương pháp và dữ liệu tin học y tế dân số như những phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này. Thời gian trôi qua, những nghiên cứu lớn hơn theo dõi trẻ sau này ở tuổi trưởng thành sẽ trở nên khả thi, kiểm tra một loạt các yếu tố và ảnh hưởng rộng lớn hơn. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được trả lời, nghiên cứu cho thấy trẻ em được thụ thai bằng ART có tỷ lệ tử vong, tình trạng sức khỏe và phát triển giáo dục tương tự so với trẻ em được thụ thai một cách tự nhiên.
Nguồn: Do children conceived using in vitro fertilization have poorer elementary school outcomes than children conceived spontaneously? https://www.fertstert.org/article/S0015-0282(20)30245-4/fulltext
Bên cạnh rất nhiều nghiên cứu so sánh về kết quả thai kỳ bất lợi và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh được sinh ra từ phương pháp hỗ trợ sinh sản (ART) với trẻ em được thụ thai một cách tự nhiên, một số nhà nghiên cứu đã theo dõi và đánh giá kết quả sức khỏe lâu dài. Tuy nhiên chỉ có số ít nghiên cứu khảo sát về học tập và phát triển của trẻ.
Luke và cs (2020) liên kết dữ liệu của Hội hỗ trợ sinh sản - Hệ thống báo cáo kết quả lâm sàng (SART-CORS) với giấy khai sinh Texas và kết quả kiểm tra thành tích học tập cho trẻ từ 8 đến 9 tuổi. Luke và cs nhận thấy rằng trẻ em được thụ thai bằng IVF đạt điểm tương đương hoặc cao hơn so với trẻ em được thụ thai một cách tự nhiên trong các bài kiểm tra thành tích đọc và toán học tiêu chuẩn ở độ tuổi 8 đến 9. Kết quả tương tự đối với cặp song sinh. Điều quan trọng cần lưu ý là trẻ em trong chương trình giáo dục đặc biệt hoặc có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế đã bị loại khỏi nghiên cứu.
Nghiên cứu này, cùng với những nghiên cứu khác kiểm tra tỷ lệ tử vong và dị tật bẩm sinh, làm tăng thêm sự hiểu biết về sức khỏe và kết quả phát triển của trẻ em được thụ thai bằng IVF, tuy nhiên còn nhiều câu hỏi đặt ra. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học có khác nhau không, hay có sự khác biệt trong việc duy trì điểm số? Có sự khác biệt về tỷ lệ khuyết tật phát triển (ví dụ, bại não, thiếu chú ý với rối loạn tăng động và rối loạn phổ tự kỷ), hoặc các bệnh mãn tính, kiểm soát đa số và các yếu tố nhân khẩu - xã hội khác? Các nghiên cứu kết hợp như mô hình sinh thái xã hội có thể phân tích sự đóng góp của các yếu tố cha mẹ - con cái, gia đình và môi trường xã hội để đánh giá kết quả giáo dục, nhưng điều này đòi hỏi phải thu thập dữ liệu bổ sung từ cha mẹ và gia đình cũng như một chiến lược phân tích cụ thể hơn.
Nghiên cứu trong tương lai kiểm tra kết quả lâu dài ở trẻ em được thụ thai bằng ART nên được dựa trên các phương pháp và dữ liệu tin học y tế dân số như những phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này. Thời gian trôi qua, những nghiên cứu lớn hơn theo dõi trẻ sau này ở tuổi trưởng thành sẽ trở nên khả thi, kiểm tra một loạt các yếu tố và ảnh hưởng rộng lớn hơn. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được trả lời, nghiên cứu cho thấy trẻ em được thụ thai bằng ART có tỷ lệ tử vong, tình trạng sức khỏe và phát triển giáo dục tương tự so với trẻ em được thụ thai một cách tự nhiên.
Nguồn: Do children conceived using in vitro fertilization have poorer elementary school outcomes than children conceived spontaneously? https://www.fertstert.org/article/S0015-0282(20)30245-4/fulltext
Các tin khác cùng chuyên mục:
BỔ SUNG GDF9 VÀ TẾ BÀO CUMULUS VÀO MÔI TRƯỜNG IVM GIÚP TĂNG KHẢ NĂNG SỐNG CỦA PHÔI NANG - Ngày đăng: 08-06-2020
Sử dụng chất chống oxy hóa có thể làm giảm ảnh hưởng tiêu cực của Etoposide lên dna tinh trùng trong quá trình điều trị ung thư - Ngày đăng: 04-06-2020
So sánh hai phương pháp đo stress oxy hóa và mối quan hệ của hai phương pháp với phân mảnh dna tinh trùng và thông số tinh dịch - Ngày đăng: 04-06-2020
Tác dụng chống oxy hóa của Penicillamine với stress oxy hóa ở tinh trùng người - Ngày đăng: 04-06-2020
Có nên chỉ định thực hiện ICSI cho những bệnh nhân dị dạng tinh trùng? - Ngày đăng: 02-06-2020
Phân tích hình dạng tinh trùng người bằng điện thoại thông minh kết hợp với thuật toán học sâu - Ngày đăng: 02-06-2020
Tính nhất quán và khách quan của việc đánh giá phôi tự động bằng cách sử dụng mạng lưới thần kinh sâu - Ngày đăng: 02-06-2020
Điều trị dự phòng thuyên tắc mạch ở thai phụ nghi nhiễm sars-cov-2: tiêu chí quản lý trên lâm sàng - Ngày đăng: 02-06-2020
Tìm thấy bằng chứng rối loạn tưới máu bánh nhau ở thai phụ mắc Covid-19 - Ngày đăng: 02-06-2020
Tiên đoán chất lượng tinh trùng bằng mạng lưới thần kinh nhân tạo - Ngày đăng: 25-05-2020
Dựa vào thuật toán Deep learning để lựa chọn tinh trùng với tính nguyên vẹn DNA cao - Ngày đăng: 25-05-2020
Trí tuệ nhân tạo tiên đoán trẻ sinh sống không lệch bội từ một hình ảnh phôi nang - Ngày đăng: 25-05-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK