Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 09-03-2019 8:44pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

Th.S Nguyễn Hữu Duy – chuyên viên phôi học – IVF Vạn Hạnh
 

 
Nhiều nghiên cứu gần đây ở Mỹ và Anh cho thấy tỷ lệ thai sau chuyển phôi tươi thường đạt đỉnh trong khoảng 20 – 25 noãn chọc hút và thậm chí giảm khi số lượng noãn chọc hút trên 25 noãn. Việc chọc hút ra nhiều noãn hơn liên quan đến nồng độ progesterone cao hơn trong pha cuối nang noãn dẫn đến giảm sự chấp nhận của niêm mạc tử cung và tỷ lệ thai thấp hơn. Nhiều nhà nghiên cứu cũng lo ngại rằng số lượng noãn nhiều hơn có liên quan đến noãn có tiềm năng phát triển và sinh sản kém. Các nghiên cứu trước đây cho thấy số lượng noãn nhiều hơn thường có tỷ lệ noãn non cao hơn và tỷ lệ thụ tinh thấp hơn tính trên mỗi noãn chọc hút. Một nghiên cứu RCT của tác giả Baart và cộng sự (2007) nhận thấy rằng số lượng noãn chọc hút ra ít hơn tương quan với tỷ lệ phôi nguyên bội cao hơn.

Nếu thực sự số lượng noãn nhiều hơn có liên quan đến noãn có tiềm năng phát triển thấp hơn và do đó ít phôi nguyên bội hơn, điều đó sẽ dẫn đến cơ hội mang thai và sinh em bé của bệnh nhân sẽ thấp hơn (tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn). Tuy nhiên, bằng chứng gần đây từ các cơ sở dữ liệu lớn cho thấy số lượng noãn nhiều hơn có liên quan đến tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn cao hơn. Do có sự không đồng nhất giữa các nghiên cứu về số lượng noãn chọc hút và số lượng phôi nguyên bội tạo thành, tác giả Venetis và cộng sự (2018) đã tiến hành nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá mối liên quan giữa số lượng noãn thu được sau khi kích thích buồng trứng và số phôi nguyên bội ngày 3 ở những phụ nữ điều trị bằng phương pháp ICSI.

Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đa trung tâm, phân tích 724 chu kỳ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện lệch bội (PGT-A) sử dụng sinh thiết phôi ngày 3 và kỹ thuật aCGH từ giữa tháng 3 năm 2011 đến tháng 12 năm 2016 trong 3 labo. Kết quả nghiên cứu chính là số phôi nguyên bội vào ngày 3. Kết quả nghiên cứu phụ là: (1) tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn, (2) mối tương quan giữa số lượng noãn chọc hút với xác suất để có tối thiểu 1 phôi ngày 3 nguyên bội ở các nhóm tuổi khác nhau. Phân tích thống kê được thực hiện bằng cách sử dụng khung phương trình ước lượng tổng quát (GEE) và mô hình hồi quy đa biến để kiểm soát tính chất phân tán của dữ liệu trong khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn.

Kết quả nghiên cứu cho thấy khi phân tích hồi quy đa biến các thông số là tuổi vợ, số noãn chọc hút, chỉ định PGT-A, buồng trứng đa nang, phác đồ kích thích buồng trứng, liều khởi đầu và tổng liều FSH, thời gian kích thích buồng trứng thì chỉ có tuổi vợ và số noãn chọc hút có liên quan độc lập với số lượng phôi ngày 3 nguyên bội. Tuy nhiên, khi đưa thêm biến số là số lượng phôi ngày 3 nguyên bội vào phân tích đa biến tác động lên tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn thì số lượng noãn chọc hút không còn là yếu tố tác động độc lập mà chỉ có số lượng phôi ngày 3 nguyên bội có tác động độc lập đến tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn. Ngoài ra, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi (25, 30, 35 và 40) trong mối tương quan với số lượng phôi ngày 3 nguyên bội. Chẳng hạn, nhóm bệnh nhân 25 tuổi có trên 90% cơ hội để có được tối thiểu 1 phôi ngày 3 nguyên bội trong khi ở nhóm 40 tuổi, cơ hội này chỉ khoảng 20%.

Mặc dù vẫn còn những hạn chế như đây là nghiên cứu hồi cứu, chỉ áp dụng cho nhóm bệnh nhân có chỉ định PGT-A, phôi sinh thiết là phôi ngày 3 (không còn là đối tượng sinh thiết phổ biến như phôi nang), dùng kỹ thuật aCGH, nhưng qua kết quả nghiên cứu vẫn cho thấy rằng càng nhiều noãn thu được càng có nhiều phôi ngày 3 nguyên bội mà không phụ thuộc vào mức độ kích thích buồng trứng. Tuy nhiên, cơ hội có được phôi nguyên bội sẽ giảm ở phụ nữ lớn tuổi.
 
Nguồn: Christos A Venetis, Liza Tilia, Erin Panlilio, Andrew Kan; Is more better? A higher oocyte yield is independently associated with more day-3 euploid embryos after ICSI, Human Reproduction, Volume 34, Issue 1, 1 January 2019, Pages 79–83, https://doi.org/10.1093/humrep/dey342


Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK