Tin tức
on Wednesday 06-03-2019 1:49pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Nguyễn Thị Hà
Đơn nguyên sơ sinh BV Mỹ Đức
Để đánh giá chất lượng chăm sóc cuộc sinh; đã có những ý kiến cho rằng nên sử dụng việc trẻ sơ sinh đủ tháng phải nhập điều trị tại khoa hồi sức tích cực sơ sinh (NICU) ngoài dự tính, cùng với sự xuất hiện bất ngờ các biến chứng sau sinh, như những tham số để đo lường. Những nghiên cứu trước đây đã ghi nhận sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ trẻ sơ sinh phải nhập NICU tại các bệnh viện. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa hiểu rõ về ảnh hưởng của thực hành lâm sàng trong sản khoa đối với các tỷ lệ này, hay liệu thực hành lâm sàng tại bệnh viện có phải chịu trách nhiệm cho sự khác biệt về số trường hợp trẻ sơ sinh đủ tháng, nguy cơ thấp, phải nhập NICU ngoài dự đoán.
Để trả lời cho câu hỏi trên, bác sĩ Mark A. Clapp, đang công tác tại bộ môn Phụ Sản trường Y khoa Harvard, cùng các cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu nhằm xác định mối liên quan giữa các đặc điểm của sản phụ và các biến cố xảy ra trong cuộc sinh với việc trẻ sơ sinh phải nhập NICU ngoài dự tính. Bên cạnh đó, trên nhóm trẻ nghiên cứu, các tác giả cũng xác định sự khác biệt giữa các bệnh viện về tỷ lệ trẻ nhập NICU.
Nghiên cứu được thiết kế mô tả cắt ngang hồi cứu và sử dụng một phần số liệu thu thập được từ nghiên cứu Consortium for Safe Labor. Dân số nghiên cứu bao gồm những sản phụ sinh đủ tháng (≥ 37 tuần), đơn thai, không dị tật, trẻ sinh sống và không có nguy cơ phải nhập NICU. Việc trẻ sơ sinh phải nhập NICU là kết cục chính của nghiên cứu.
Nghiên cứu thu được một số kết quả chính như sau:
· Tổng số có 143.951 trẻ sơ sinh đáp ứng tất cả các tiêu chí nhận vào; 7995 (5,6%) được nhập NICU sau khi sinh
· Các yếu tố gắn liền với những tỷ số chênh cao nhất về tỷ lệ trẻ phải nhập NICU bao gồm: con so (tỷ số chênh đã điều chỉnh (AOR): 1,62; khoảng tin cậy 95% (KTC) : 1,53-1,71); trẻ lớn so với tuổi thai ( AOR: 1,59; KTC 95% 1,47-1,71), trẻ nhỏ so với tuổi thai (AOR: 1,6; KTC 95%: 1,47-1,73).
· Giục sinh (AOR: 0,95; KTC 95%: 0,89–1,01) không liên quan với sự tăng nhập NICU
· Các biến cố khác có liên quan với tăng tỷ số chênh bao gồm: chuyển dạ giai đoạn 2 kéo dài (AOR: 1,66; KTC 95%: 1,51-1,83), viêm màng ối ( AOR: 3,89; KTC 95%: 3,42–4,44), nước ối nhuộm phân su (AOR: 1,96; KTC 95%: 1,82–2,10), vỡ ối sớm (AOR: 2,64; KTC 95%: 2,16–2,21)
· Khi so với những sản phụ không vào chuyển dạ, tỷ lệ trẻ nhập NICU thấp hơn ở sản phụ có vào chuyển dạ: AOR: 0,48 (KTC 95%: 0,45- 0,52) ở sản phụ không có sẹo cũ tử cung và AOR: 0,83 (KTC 95%: 0,73 -0,94) ở sản phụ có sẹo cũ tử cung.
· Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ trẻ nhập NICU giữa các bệnh viện; dao động từ 2,9% đến 11,2%. Tuy nhiên sau khi phân tích chi tiết, sự khác biệt giữa các bệnh viện chỉ vào khoảng 1,9%; cho thấy tác động của bệnh viện không ảnh hưởng nhiều đến sự khác biệt.
Nghiên cứu trên đã cung cấp thêm dữ liệu trong việc xem tỷ lệ trẻ sơ sinh đủ tháng phải nhập NICU ngoài dự tính như một chỉ tố để đánh giá chất lượng chăm sóc sản khoa. Nghiên cứu đã chứng minh rằng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, dù nhỏ, giữa các bệnh viện về tỷ lệ trẻ sơ sinh đủ tháng phải nhập NICU ngoài dự tính, và những biến cố trong quá trình chuyển dạ có liên quan đến việc tăng nguy cơ nhập NICU sau sinh.
(Nguồn: https://www.ajog.org/article/S0002-9378(19)30324-2/fulltext)
Đơn nguyên sơ sinh BV Mỹ Đức
Để đánh giá chất lượng chăm sóc cuộc sinh; đã có những ý kiến cho rằng nên sử dụng việc trẻ sơ sinh đủ tháng phải nhập điều trị tại khoa hồi sức tích cực sơ sinh (NICU) ngoài dự tính, cùng với sự xuất hiện bất ngờ các biến chứng sau sinh, như những tham số để đo lường. Những nghiên cứu trước đây đã ghi nhận sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ trẻ sơ sinh phải nhập NICU tại các bệnh viện. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa hiểu rõ về ảnh hưởng của thực hành lâm sàng trong sản khoa đối với các tỷ lệ này, hay liệu thực hành lâm sàng tại bệnh viện có phải chịu trách nhiệm cho sự khác biệt về số trường hợp trẻ sơ sinh đủ tháng, nguy cơ thấp, phải nhập NICU ngoài dự đoán.
Để trả lời cho câu hỏi trên, bác sĩ Mark A. Clapp, đang công tác tại bộ môn Phụ Sản trường Y khoa Harvard, cùng các cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu nhằm xác định mối liên quan giữa các đặc điểm của sản phụ và các biến cố xảy ra trong cuộc sinh với việc trẻ sơ sinh phải nhập NICU ngoài dự tính. Bên cạnh đó, trên nhóm trẻ nghiên cứu, các tác giả cũng xác định sự khác biệt giữa các bệnh viện về tỷ lệ trẻ nhập NICU.
Nghiên cứu được thiết kế mô tả cắt ngang hồi cứu và sử dụng một phần số liệu thu thập được từ nghiên cứu Consortium for Safe Labor. Dân số nghiên cứu bao gồm những sản phụ sinh đủ tháng (≥ 37 tuần), đơn thai, không dị tật, trẻ sinh sống và không có nguy cơ phải nhập NICU. Việc trẻ sơ sinh phải nhập NICU là kết cục chính của nghiên cứu.
Nghiên cứu thu được một số kết quả chính như sau:
· Tổng số có 143.951 trẻ sơ sinh đáp ứng tất cả các tiêu chí nhận vào; 7995 (5,6%) được nhập NICU sau khi sinh
· Các yếu tố gắn liền với những tỷ số chênh cao nhất về tỷ lệ trẻ phải nhập NICU bao gồm: con so (tỷ số chênh đã điều chỉnh (AOR): 1,62; khoảng tin cậy 95% (KTC) : 1,53-1,71); trẻ lớn so với tuổi thai ( AOR: 1,59; KTC 95% 1,47-1,71), trẻ nhỏ so với tuổi thai (AOR: 1,6; KTC 95%: 1,47-1,73).
· Giục sinh (AOR: 0,95; KTC 95%: 0,89–1,01) không liên quan với sự tăng nhập NICU
· Các biến cố khác có liên quan với tăng tỷ số chênh bao gồm: chuyển dạ giai đoạn 2 kéo dài (AOR: 1,66; KTC 95%: 1,51-1,83), viêm màng ối ( AOR: 3,89; KTC 95%: 3,42–4,44), nước ối nhuộm phân su (AOR: 1,96; KTC 95%: 1,82–2,10), vỡ ối sớm (AOR: 2,64; KTC 95%: 2,16–2,21)
· Khi so với những sản phụ không vào chuyển dạ, tỷ lệ trẻ nhập NICU thấp hơn ở sản phụ có vào chuyển dạ: AOR: 0,48 (KTC 95%: 0,45- 0,52) ở sản phụ không có sẹo cũ tử cung và AOR: 0,83 (KTC 95%: 0,73 -0,94) ở sản phụ có sẹo cũ tử cung.
· Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ trẻ nhập NICU giữa các bệnh viện; dao động từ 2,9% đến 11,2%. Tuy nhiên sau khi phân tích chi tiết, sự khác biệt giữa các bệnh viện chỉ vào khoảng 1,9%; cho thấy tác động của bệnh viện không ảnh hưởng nhiều đến sự khác biệt.
Nghiên cứu trên đã cung cấp thêm dữ liệu trong việc xem tỷ lệ trẻ sơ sinh đủ tháng phải nhập NICU ngoài dự tính như một chỉ tố để đánh giá chất lượng chăm sóc sản khoa. Nghiên cứu đã chứng minh rằng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, dù nhỏ, giữa các bệnh viện về tỷ lệ trẻ sơ sinh đủ tháng phải nhập NICU ngoài dự tính, và những biến cố trong quá trình chuyển dạ có liên quan đến việc tăng nguy cơ nhập NICU sau sinh.
(Nguồn: https://www.ajog.org/article/S0002-9378(19)30324-2/fulltext)
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối tương quan giữa động học hình thái và đặc điểm di truyền của phôi - Ngày đăng: 06-03-2019
Thời gian có một bé sinh sống khoẻ mạnh – Mục tiêu để cân nhắc các quyết định lâm sàng trong điều trị hiếm muộn: Đồng thuận Delphi - Ngày đăng: 06-03-2019
So sánh giữa đơn trị liệu Letrozole và kết hợp Letrozole với Clomiphene Citrate để gây phóng noãn ở bệnh nhân vô sinh có hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 28-02-2019
Chi phí hiệu quả của xét nghiệm di truyền tiền làm tổ chẩn đoán lệch bội (PGT-A) - Ngày đăng: 28-02-2019
Xây dựng và đánh giá hiệu quả mô hình dự đoán giúp giảm thiểu tỷ lệ sinh đôi với tỷ lệ trẻ sinh sống cao vẫn được đảm bảo sau IVF - Ngày đăng: 28-02-2019
Hoạt động của ty thể ở tế bào Cumulus có mối tương quan với chỉ số BMI của nữ giới trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 21-02-2019
Trẻ sinh ra từ phương pháp chuyển Spindle ở noãn giúp ngăn chặn các bệnh liên quan đến ty thể - Ngày đăng: 21-02-2019
Mối tương quan giữa hình dạng và khả năng làm tổ của phôi nang nguyên bội - Ngày đăng: 21-02-2019
Mối tương quan giữa BMI với số lượng tinh trùng - Ngày đăng: 21-02-2019
Chuyển phôi tươi ngày 5 phát triển chậm so với hoãn chuyển phôi tươi ngày 5 thành chuyển phôi trữ ngày 6 với phôi nở rộng hoàn toàn: phương pháp tiếp cận nào tối ưu hơn? - Ngày đăng: 18-02-2019
Hệ vi sinh ở tinh hoàn của nam giới vô tinh - bằng chứng đầu tiên về ảnh hưởng của sự thay đổi vi môi trường - Ngày đăng: 15-02-2019
Acid béo Omega-3 và khả năng sinh sản - Ngày đăng: 11-02-2019
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK