Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 21-02-2019 9:28am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

Lê Thị Thu Thảo – Chuyên viên phôi học – IVFMD Tân Bình

Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy ảnh hưởng tiêu cực của béo phì đối với khả năng sinh sản của con người. Ở những bệnh nhân thừa cân và béo phì, những thay đổi trong quá trình chuyển hóa năng lượng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của tế bào noãn và phôi. Trong đó, ty thể giúp điều hòa quá trình chuyển hóa năng lượng, kiểm soát sự phát triển, sự biệt hóa và apoptosis của tế bào. Mối quan hệ giữa sự apoptosis ở ty thể và vấn đề vô sinh đã được tiến hành ở chuột béo phì và tiểu đường. Kết quả cho thấy sự béo phì có liên quan đến những thay đổi chức năng ty thể ở tế bào noãn và hợp tử (Igosheva và cs, 2010). Ở noãn, tế bào cumulus là nguồn chính cung cấp vật liệu cho quá trình sản xuất ATP ở ty thể. Do vậy, những phát hiện gần đây cho thấy tế bào cumulus đóng vai trò như rào cản, bảo vệ noãn khỏi các tác nhân gây hại. Nghiên cứu của Victoria và cộng sự nhằm đánh giá mối tương quan giữa hoạt động ty thể ở tế bào cumulus và chất lượng phát triển của noãn ở phụ nữ cân nặng bình thường và thừa cân/béo phì trong quá trình điều trị hỗ trợ sinh sản.

Nghiên cứu thực hiện trên bệnh nhân có dự trữ buồng trứng bình thường, ghi nhận chỉ số BMI của cơ thể và chia làm 2 nhóm: phụ nữ bình thường (NW) BMI = 18,5 - 25,0 kg/m2; phụ nữ béo phì (OB) BMI ≥ 30,0 kg/m2. Noãn thu nhận được thụ tinh và thu nhận tế bào cumulus, tiến hành nhuộm để phân tích chỉ số ty thể (MPI). Đánh giá nồng độ leptin (cao ở người béo phì), adiponectin (kích thích sự sinh sản ty thể và làm giảm lipid ở người, điều tiết chất dinh dưỡng trong bào thai); GSH (chất chống oxy hóa) trong máu. 

Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về số lượng và chất lượng noãn thu nhận ở 2 nhóm. Số lượng phôi tốt nhóm NW cao hơn nhóm OB (p = 0,013). MPI ở các giai đoạn phát triển noãn khác nhau và chất lượng phôi khác nhau không có sự khác biệt. Tuy nhiên, MPI cao ở nhóm NW so với nhóm OB (0,87 ± 0,16 AU và 0,78 ± 0,15 AU). Tỉ lệ làm tổ nhóm NW = 44.4% và OB = 21.4%. Ngoài ra một số kết quả phân tích còn cho thấy mối tương quan giữa MPI và nồng độ adiponectin huyết thanh (r = 0,27; p = 0,014), giữa MPI và glutathione (r=0,29; p=0,008).

Như vậy ở những người phụ nữ béo phì, việc giảm đáng kể MPI cho thấy dấu hiệu suy giảm chức năng ty thể (do stress oxy hóa). Dư thừa lipid và sự tích tụ acid béo tự do trong tế bào dẫn đến rối loạn chức năng ty thể. Ở tế bào cumulus, rối loạn chức năng ty thể làm giảm chất lượng noãn bào và tỉ lệ có thai ở bệnh nhân béo phì. Vì vậy cần có phương pháp tiếp cận tốt hơn ở đối tượng này để nâng cao chất lượng điều trị trong hỗ trợ sinh sản.

Nguồn: Cumulus cell mitochondrial activity in relation to body mass index in women undergoing assisted reproductive therapy. BBA Clinical/10.1016/j.bbacli.2017.03.005


Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK