Tin tức
on Monday 18-02-2019 8:46am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Hữu Duy – Chuyên viên phôi học – IVF Vạn Hạnh
Sự phát triển của nuôi cấy phôi dài ngày và kỹ thuật trữ phôi bằng phương pháp thủy tinh hóa đã giúp cho việc nuôi cấy phôi nang và chuyển đơn phôi trở nên phổ biến. Phần lớn các dữ liệu hiện tại về thành công của chuyển phôi nang đều từ các nghiên cứu về chuyển phôi nang ngày 5 phát triển tốt. Tuy nhiên, cũng giống như trong một hệ thống sinh học bất kỳ, không phải tất cả các phôi trong quần thể đều có tốc độ phát triển giống nhau, và như vậy trong quá trình phát triển lên phôi nang, sẽ có một số phôi hoặc không tạo được khoang ở ngày 5, hoặc tạo được khoang nhưng không đạt đến độ nở rộng khoang phôi hoàn toàn. Việc chuyển phôi tươi các phôi nang phát triển chậm thường cho kết quả về tỷ lệ làm tổ và thai lâm sàng thấp hơn so với chuyển các phôi nang nở rộng hoàn toàn. Lý do cho sự khác biệt này có thể là do sự không đồng bộ giữa phôi và niêm mạc tử cung.
Việc hoãn chuyển phôi tươi để chuyển sang chuyển phôi trữ có tiềm năng cải thiện kết cục thụ tinh trong ống nghiệm do cải thiện sự đồng bộ giữa phôi và niêm mạc tử cung. Cách tối ưu để kiểm chứng điều này là khảo sát các ca mà trong đó toàn bộ các phôi đều phát triển chậm và được chuyển phôi tươi ngày 5, và đem so sánh với các chu kỳ chuyển phôi trữ tiếp theo nhưng chuyển các phôi nang nở rộng hoàn toàn ở ngày 6 của cùng một chu kỳ chọc hút trứng ban đầu. Điều này sẽ giúp đồng bộ tốt hơn các đặc điểm nền khi so sánh các phôi đem chuyển do đều cùng 1 chu kỳ. Do vậy, tác giả Tannus và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu với mục tiêu so sánh các kết cục của việc chuyển phôi tươi các phôi phát triển chậm ở ngày 5 với chuyển phôi trữ các phôi ngày 6 nở rộng hoàn toàn ở các chu kỳ tiếp theo của cùng một quần thể phôi ban đầu.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu bao gồm 477 phụ nữ ở độ tuổi < 40 đã trải qua quá trình chuyển phôi đơn ngày 5 phát triển chậm và tiếp tục chuyển phôi trữ các phôi nang ngày 6 nở rộng hoàn toàn từ cùng chu kỳ IVF trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016. Nghiên cứu bao gồm các chu kỳ trong đó phôi bắt đầu nở (tạo khoang độ I và II) vào ngày 5 nhưng không đạt đến giai đoạn nở rộng hoàn toàn (độ III), hoặc chỉ mới ở giai đoạn phôi dâu vào ngày thứ 5 của quá trình nuôi cấy. Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu đều trải qua quá trình chuyển đơn phôi chọn lọc (elective, single embryo transfer) (phôi nang chậm hoặc phôi dâu) vào ngày 5 và có ít nhất một phôi phát triển thành phôi nang nở rộng hoàn toàn vào ngày 6 đủ tiêu chuẩn để trữ lạnh. Tất cả các bệnh nhân, bất kể kết quả của chuyển phôi tươi như thế nào, được nhận vào nghiên cứu nếu quay lại chuyển phôi trữ ngày 6 ít nhất một chu kỳ chuyển phôi trữ tiếp theo.
Tổng cộng có 1.070 chu kỳ chuyển phôi (tươi + trữ) được nhận vào nghiên cứu. Trong số đó, 365 phụ nữ được chuyển đơn phôi chọn lọc phôi nang phát triển chậm (Nhóm I) và 112 phụ nữ được chuyển đơn phôi chọn lọc phôi dâu (Nhóm II). Các nhóm I và II lần lượt trải qua 457 và 136 chu kỳ chuyển phôi trữ tiếp theo. Tuổi trung bình của nhóm I là 33,8 ± 2,9 tuổi, tỷ lệ phôi ngày 5 phát triển thành phôi nang nở rộng hoàn toàn vào ngày 6 là 92% và số lượng phôi nang đông lạnh là 627 (trung bình 1,71 phôi nang mỗi chu kỳ). Kết quả của chu kỳ tươi và trữ tương đương nhau về tỷ lệ thai lâm sàng (31,0 so với 30,4%, p = 0,86) và tỷ lệ trẻ sinh sống (23,3 so với 20,3%, p = 0,15). Ở nhóm II, tuổi trung bình là 35,8 ± 3,4 tuổi và tỷ lệ phôi dâu phát triển thành phôi nang nở rộng hoàn toàn vào ngày 6 là 72%. Số lượng phôi nang đông lạnh vào ngày 6 là 155 (1,38 mỗi chu kỳ). Việc chuyển phôi tươi trong nhóm II dẫn đến tỷ lệ thai lâm sàng (5,3 so với 30,1%, p < 0,001) và tỷ lệ trẻ sinh sống (1,8 so với 20,5%, P < 0,001) thấp hơn đáng kể so với chuyển phôi trữ ngày 6. Các kết quả vẫn không thay đổi sau khi đã loại bỏ các yếu tố có thể gây nhiễu.
Thiết kế hồi cứu của nghiên cứu là một hạn chế lớn. Mặc dù các tác giả đã so sánh kết quả của phôi có nguồn gốc từ cùng một đoàn hệ, các chu kỳ chuyển phôi trữ có thể vẫn bị nhiễu do bệnh nhân lớn tuổi hơn và có tiên lượng kém hơn. Hơn nữa, nghiên cứu chỉ bao gồm các chu kỳ trong đó có phôi nang có thể trữ được vào ngày 6, do đó kết quả không thể được áp dụng cho những người bắt buộc chuyển phôi ngày 5 mà không có phôi trữ lại.
Như vậy, việc chuyển phôi tươi các phôi nang bắt đầu nở (độ I và II) vào ngày 5 cho kết quả tương tự với việc chuyển phôi trữ ngày 6 các phôi nang nở rộng hoàn toàn có nguồn gốc từ cùng một đoàn hệ. Tuy nhiên, trong các trường hợp chỉ có phôi dâu/phôi đang nén vào ngày 5, việc tiếp tục nuôi cấy cho đến khi đạt được phôi nang nở rộng hoàn toàn vào ngày 6 và sau đó chuyển phôi trữ ở chu kỳ tiếp theo sẽ dẫn đến tỷ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống cao hơn đáng kể.
Nguồn: Fresh transfer of Day 5 slow-growing embryos versus deferred transfer of vitrified, fully expanded Day 6 blastocysts: which is the optimal approach? Human Reproduction, Volume 34, Issue 1, 1 January 2019, Pages 44–51.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hệ vi sinh ở tinh hoàn của nam giới vô tinh - bằng chứng đầu tiên về ảnh hưởng của sự thay đổi vi môi trường - Ngày đăng: 15-02-2019
Acid béo Omega-3 và khả năng sinh sản - Ngày đăng: 11-02-2019
Mối tương quan của 2 phương pháp ICSI và IVF với tỉ lệ phôi khảm trong sàng lọc lệch bội nhiễm sắc thể bằng kỹ thuật NGS - Ngày đăng: 11-02-2019
Bóc u lạc nội mạc tử cung buồng trứng 2 bên: Giảm dự trữ buồng trứng liên quan đến phẫu thuật - Ngày đăng: 30-01-2019
Tác động của châm cứu lên chu kỳ chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 30-01-2019
Nên làm gì với các trường hợp nam giới có phân mảnh DNA tinh trùng? - Ngày đăng: 30-01-2019
Phân tích biểu hiện gen trên phức hợp cumulus-corona kết hợp đánh giá hình thái phôi giúp tăng tỷ lệ sinh sống và giảm thời gian điều trị trong chu kỳ chuyển đơn phôi tươi - Ngày đăng: 29-01-2019
Cào nội mạc tử cung trước khi thụ tinh ống nghiệm không làm tăng tỷ lệ có thai - Ngày đăng: 26-01-2019
Sàng lọc di truyền tiền làm tổ nhanh bằng thiết bị giải trình tự dna cầm tay sử dụng công nghệ Nanopore - Ngày đăng: 26-01-2019
Ty thể điều chỉnh hoạt động acrosin, phản ứng cực đầu và tính toàn vẹn nhiễm sắc chất của tinh trùng - Ngày đăng: 19-01-2019
So sánh các phác đồ Methotrexate trong điều trị thai ngoài tử cung - Ngày đăng: 18-01-2019
Ô nhiễm không khí và nguy cơ sẩy thai - Ngày đăng: 18-01-2019
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Eastin Grand Hotel Saigon, thứ bảy 7.12.2024 và sáng chủ nhật ...
Năm 2020
Novotel Saigon Centre, Thứ Bảy ngày 2 . 11 . 2024
Năm 2020
JW Marriott Hotel & Suites Saigon (InterContinental Saigon), Chủ Nhật ngày ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
Y học sinh sản tập 57, Qúy I/2021 - Thai lạc chỗ
FACEBOOK