Tin tức
on Wednesday 06-03-2019 1:49pm
Danh mục: Tin quốc tế
Lê Thị Bích Phượng - Chuyên viên phôi học - IVFMD Phú Nhuận
Cải thiện điều kiện nuôi cấy phôi và chuyển đơn phôi là mục tiêu hàng đầu của các trung tâm hỗ trợ sinh sản nhằm giảm tỉ lệ đa thai nhưng vẫn duy trì được tỉ lệ thai và tăng tỉ lệ làm tổ. Tuy nhiên trong nuôi cấy phôi in vitro, tỉ lệ phôi lệch bội có khi vượt ngưỡng 60% tổng số phôi mà bệnh nhân có được, đây là nguyên nhân chính dẫn đến sẩy thai và thất bại làm tổ liên tiếp vì vậy cần có một phương pháp an toàn để lựa chọn phôi nang nguyên bội có tiềm năng phát triển in vivo cao là điều quan trọng trong việc cải thiện kết quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm.
Hiện nay, sinh thiết phôi thu nhận tế bào để phân tích di truyền tiền làm tổ của phôi là phương pháp chính để xác định phôi bất thường nhiễm sắc thể, tuy nhiên đây là phương pháp xâm lấn, mặc dù đã có nhiều công bố cho thấy rằng sinh thiết phôi nang không ảnh hưởng đến khả năng làm tổ và phát triển thành thai của phôi tuy nhiên kỹ thuật này tăng đáng kể chi phí điều trị cho bệnh nhân vì vậy đã có nhiều nghiên cứu tập trung tìm kiếm phương pháp không xâm lấn nhằm lựa chọn được phôi nguyên bội.
Nuôi cấy phôi bằng hệ thống time-lapse và phân tích động học hình thái phôi nhằm lựa chọn phôi nguyên bội đã được nhiều nhóm tác giả thực hiện, tuy nhiên các kết quả công bố vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Vì vậy L.Rienzi và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này với mục đích đánh giá mối tương quan giữa các thông số động học với sự phát triển của phôi và đặc điểm di truyền của phôi từ đó đánh giá phôi lệch bội hay nguyên bội dựa trên những thông số này.
Nghiên cứu trên 455 phôi nang thu nhận từ 138 bệnh nhân thực hiện ICSI-PGS từ tháng 12/2012 đến 12/2013. Phôi được nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang bằng tủ cấy time-lapse thu nhận các thông số động học và sau đó thực hiện sinh thiết phôi để đánh giá tính chất di truyền của phôi. Nghiên cứu thực hiện trên 2 nhóm phôi: phôi nguyên bội và phôi lệch bội.
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Không có sự khác biệt về thời gian từ lúc ICSI đến lúc nén, bắt đầu tạo khoang phôi và hình thành phôi nang ở 2 nhóm.
- Thời gian phân chia từ 2 tế bào đến 5 tế bào (cc3) cũng không có sự khác biệt
- Có 2,7% phôi phân chia trực tiếp mang nhiễm sắc thể bình thường
- Các thông số khác như t2, t3, t4, t5, t8, S2, S3… cũng không có gì khác biệt ở hai nhóm.
Nghiên cứu này chỉ ra rằng không có mối tương quan giữa các thông số động học hình thái và tình trạng bất thường nhiễm sắc thể ở phôi, như vậy, hệ thống nuôi cấy time-lapse không thể đánh giá được đặc điểm di truyền của phôi.
Nguồn: No evidence of association between blastocyst aneuploidy and morphokinetic assessment in a selected population of poor-prognosis patients: a longitudinal cohort study. Reproductive BioMedicine Online. 10.1016/j.rbmo.2014.09.012
Cải thiện điều kiện nuôi cấy phôi và chuyển đơn phôi là mục tiêu hàng đầu của các trung tâm hỗ trợ sinh sản nhằm giảm tỉ lệ đa thai nhưng vẫn duy trì được tỉ lệ thai và tăng tỉ lệ làm tổ. Tuy nhiên trong nuôi cấy phôi in vitro, tỉ lệ phôi lệch bội có khi vượt ngưỡng 60% tổng số phôi mà bệnh nhân có được, đây là nguyên nhân chính dẫn đến sẩy thai và thất bại làm tổ liên tiếp vì vậy cần có một phương pháp an toàn để lựa chọn phôi nang nguyên bội có tiềm năng phát triển in vivo cao là điều quan trọng trong việc cải thiện kết quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm.
Hiện nay, sinh thiết phôi thu nhận tế bào để phân tích di truyền tiền làm tổ của phôi là phương pháp chính để xác định phôi bất thường nhiễm sắc thể, tuy nhiên đây là phương pháp xâm lấn, mặc dù đã có nhiều công bố cho thấy rằng sinh thiết phôi nang không ảnh hưởng đến khả năng làm tổ và phát triển thành thai của phôi tuy nhiên kỹ thuật này tăng đáng kể chi phí điều trị cho bệnh nhân vì vậy đã có nhiều nghiên cứu tập trung tìm kiếm phương pháp không xâm lấn nhằm lựa chọn được phôi nguyên bội.
Nuôi cấy phôi bằng hệ thống time-lapse và phân tích động học hình thái phôi nhằm lựa chọn phôi nguyên bội đã được nhiều nhóm tác giả thực hiện, tuy nhiên các kết quả công bố vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Vì vậy L.Rienzi và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này với mục đích đánh giá mối tương quan giữa các thông số động học với sự phát triển của phôi và đặc điểm di truyền của phôi từ đó đánh giá phôi lệch bội hay nguyên bội dựa trên những thông số này.
Nghiên cứu trên 455 phôi nang thu nhận từ 138 bệnh nhân thực hiện ICSI-PGS từ tháng 12/2012 đến 12/2013. Phôi được nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang bằng tủ cấy time-lapse thu nhận các thông số động học và sau đó thực hiện sinh thiết phôi để đánh giá tính chất di truyền của phôi. Nghiên cứu thực hiện trên 2 nhóm phôi: phôi nguyên bội và phôi lệch bội.
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Không có sự khác biệt về thời gian từ lúc ICSI đến lúc nén, bắt đầu tạo khoang phôi và hình thành phôi nang ở 2 nhóm.
- Thời gian phân chia từ 2 tế bào đến 5 tế bào (cc3) cũng không có sự khác biệt
- Có 2,7% phôi phân chia trực tiếp mang nhiễm sắc thể bình thường
- Các thông số khác như t2, t3, t4, t5, t8, S2, S3… cũng không có gì khác biệt ở hai nhóm.
Nghiên cứu này chỉ ra rằng không có mối tương quan giữa các thông số động học hình thái và tình trạng bất thường nhiễm sắc thể ở phôi, như vậy, hệ thống nuôi cấy time-lapse không thể đánh giá được đặc điểm di truyền của phôi.
Nguồn: No evidence of association between blastocyst aneuploidy and morphokinetic assessment in a selected population of poor-prognosis patients: a longitudinal cohort study. Reproductive BioMedicine Online. 10.1016/j.rbmo.2014.09.012
Các tin khác cùng chuyên mục:
Thời gian có một bé sinh sống khoẻ mạnh – Mục tiêu để cân nhắc các quyết định lâm sàng trong điều trị hiếm muộn: Đồng thuận Delphi - Ngày đăng: 06-03-2019
So sánh giữa đơn trị liệu Letrozole và kết hợp Letrozole với Clomiphene Citrate để gây phóng noãn ở bệnh nhân vô sinh có hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 28-02-2019
Chi phí hiệu quả của xét nghiệm di truyền tiền làm tổ chẩn đoán lệch bội (PGT-A) - Ngày đăng: 28-02-2019
Xây dựng và đánh giá hiệu quả mô hình dự đoán giúp giảm thiểu tỷ lệ sinh đôi với tỷ lệ trẻ sinh sống cao vẫn được đảm bảo sau IVF - Ngày đăng: 28-02-2019
Hoạt động của ty thể ở tế bào Cumulus có mối tương quan với chỉ số BMI của nữ giới trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 21-02-2019
Trẻ sinh ra từ phương pháp chuyển Spindle ở noãn giúp ngăn chặn các bệnh liên quan đến ty thể - Ngày đăng: 21-02-2019
Mối tương quan giữa hình dạng và khả năng làm tổ của phôi nang nguyên bội - Ngày đăng: 21-02-2019
Mối tương quan giữa BMI với số lượng tinh trùng - Ngày đăng: 21-02-2019
Chuyển phôi tươi ngày 5 phát triển chậm so với hoãn chuyển phôi tươi ngày 5 thành chuyển phôi trữ ngày 6 với phôi nở rộng hoàn toàn: phương pháp tiếp cận nào tối ưu hơn? - Ngày đăng: 18-02-2019
Hệ vi sinh ở tinh hoàn của nam giới vô tinh - bằng chứng đầu tiên về ảnh hưởng của sự thay đổi vi môi trường - Ngày đăng: 15-02-2019
Acid béo Omega-3 và khả năng sinh sản - Ngày đăng: 11-02-2019
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK