Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Sunday 14-09-2025 11:01pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Ngô Thị Lan Phương
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, Bệnh viện Đa Khoa Gia Đình Đà Nẵng


Giới thiệu
Đông lạnh noãn hiện nay đã trở nên phổ biến và được áp dụng rộng rãi, không chỉ giúp bảo tồn khả năng sinh sản cho bệnh nhân ung thư mà còn là xu hướng cho trữ noãn chủ động. Trong quy trình thủy tinh hóa noãn thường quy hiện nay, để giảm thiểu độc tính của chất bảo vệ đông lạnh (cryoprotectant-CPA) trong quá trình đông lạnh, noãn được cân bằng với CPA ở nhiệt độ phòng. Sự cân bằng được kiểm soát này cho phép CPA thâm nhập hiệu quả vào màng tế bào, giảm thiểu nguy cơ sốc thẩm thấu và độc tính lên noãn. Sau đó, noãn được đưa vào dung dịch thủy tinh hóa (vitrification solution-VS) có nồng độ CPA tăng lên và nhanh chóng làm lạnh đến nhiệt độ cực thấp để hoàn tất quá trình thủy tinh hóa. Đối với quy trình rã đông, noãn được làm ấm nhanh đến 37 °C trong dung dịch rã đông (thawing solution-TS, 1 phút), phương pháp này ngăn ngừa sự hình thành băng và duy trì tính toàn vẹn về cấu trúc của noãn. Trong quá trình làm ấm, CPA được pha loãng nhanh chóng và loại bỏ để giảm thiểu hơn nữa nguy cơ gây tổn thương và độc tính do chất bảo vệ đông lạnh gây ra. Phương pháp pha loãng theo gradient, noãn sau đó được đưa vào dung dịch pha loãng (dilution solution-DS, 3 phút) và dung dịch rửa (wash solution-WS, 5–6 phút) ở nhiệt độ phòng để giảm thiểu sốc thẩm thấu, đảm bảo sự bù nước đồng đều của noãn và giảm thiểu nguy cơ vỡ màng. Mặc dù hiệu quả, nhưng phương pháp làm ấm thông thường (conventional warming protoco-CWP) này phức tạp và tốn nhiều thời gian.
Một số nghiên cứu gần đây tập trung vào việc rút ngắn thời gian cần thiết để làm ấm phôi được bảo quản lạnh, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả phòng thí nghiệm trong khi vẫn duy trì kết quả lâm sàng. Lieberman và cộng sự (2025) đã giới thiệu một trong những quy trình làm ấm đã được sửa đổi (modified warming protocols-MWP) giúp loại bỏ nhu cầu về DS và WS, đơn giản hóa CWP thành một quy trình siêu nhanh, chỉ gồm một bước, với thời gian ủ trong TS trong 1 phút. MWP này không chỉ giảm thời gian cần thiết để làm ấm phôi nang mà còn cải thiện kết quả của thai kỳ. Ngoài ra, nó đạt được tỷ lệ sống sót và tái nở rộng tương tự như những tỷ lệ quan sát được với CWP. Thời gian làm ấm giảm này làm giảm khối lượng công việc cho các chuyên viên phôi học, từ đó tối ưu hóa quy trình làm việc lâm sàng.
Tuy vậy, noãn rất nhạy cảm với stress do bảo quản lạnh, điều này ảnh hưởng đến khả năng ứng dụng của MWP cho noãn đã đông lạnh. Mặc dù các quy trình này có thể cải thiện hiệu quả bảo quản lạnh phôi, nhưng tính phù hợp của chúng đối với noãn đã đông lạnh vẫn chưa rõ ràng. Do đó, nghiên cứu này xác định liệu MWP có thể được áp dụng an toàn và hiệu quả cho noãn đã đông lạnh mà không ảnh hưởng đến khả năng sống hoặc tiềm năng phát triển của chúng hay không?
Phương pháp
Dữ liệu của nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này được thu thập từ những phụ nữ đã trải qua chu kỳ xin noãn (noãn tươi hoặc đông lạnh) tại Bệnh viện Phụ nữ Lee, Đài Loan, từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 8 năm 2024. Nghiên cứu bao gồm 13.103 noãn của người hiến tặng, được chia thành ba nhóm: nhóm áp dụng phác đồ làm ấm thông thường (CWP) (n = 8506), nhóm MWP (n = 980) và nhóm tươi (n = 3617).
Kết quả
Tổng cộng 9486 noãn trưởng thành từ 452 chu kỳ hiến tặng đông lạnh và 3617 noãn trưởng thành từ 174 chu kỳ hiến tặng tươi đã được phân tích trong nghiên cứu này. Tất cả noãn đã đông lạnh đều được rã đông, thụ tinh và nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang. Các phôi nang đáp ứng tiêu chuẩn hình thái vào ngày 5 hoặc ngày 6 được chọn để bảo quản lạnh hoặc chuyển phôi. Kết quả lâm sàng được so sánh giữa noãn đã đông lạnh và noãn tươi.

  • Tỷ lệ sống sau rã tương tự nhau giữa nhóm CWP và MWP (93,7% so với 93,9%, P > 0,05)

  • Tỷ lệ noãn thoái hóa sau tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) tương tự nhau đối với noãn tươi và noãn thủy tinh hóa (2,7–3,4% so với 2,8%)

  • Tỷ lệ thụ tinh bình thường thấp hơn đối với noãn thủy tinh hóa (79,5–79,6% so với 83,0%, P < 0,05), trong khi tỷ lệ thụ tinh bất thường cao hơn (9,1–10,1% so với 3,3%) ở nhóm này.

  • Tỷ lệ hình thành phôi nang và tỷ lệ phôi nang khả dụng thấp hơn ở nhóm CWP (57,5% và 35,4%) so với nhóm MWP (77,3% và 51,4%) và nhóm noãn tươi (69,2% và 48,5%).

  • Tỷ lệ mang thai/trẻ sinh sống ở nhóm MWP cao hơn nhóm CWP (66,7% so với 50,4%, P < 0,05).

  • Phân tích đa biến cho thấy mối tương quan thuận giữa MWP và sự hình thành phôi nang khả dụng (OR = 1,423, KTC 95% = 1,268 đến 1,597, P < 0,001), cũng như tỷ lệ mang thai, tỷ lệ trẻ sinh sống (OR = 1,899, KTC 95% = 1,002 đến 3,6, P < 0,05).

Hạn chế
Thiết kế hồi cứu có thể đã đưa vào các sai lệch như sai lệch lựa chọn và sai lệch ngẫu nhiên, và quy mô mẫu dường như khác nhau giữa các nhóm. Một số yếu tố liên quan đến sự phát triển phôi và kết quả thai kỳ khác nhau đáng kể giữa các nhóm MWP, CWP và tươi, mặc dù có sử dụng noãn hiến tặng.
Mặc dù phân tích hồi quy Poisson hoặc logistic đa biến đã được tiến hành để điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu và xác nhận IRR cho sự hình thành phôi nang có thể sử dụng hoặc OR cho thai kỳ/sinh con sống đang diễn ra với MWP, nhưng những phát hiện này vẫn cần được xác nhận thông qua các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên.
Cuối cùng, vì nghiên cứu này dựa trên noãn hiến tặng, nên cần nghiên cứu thêm để xác định khả năng áp dụng của MWP vào các bối cảnh lâm sàng khác nhau.
Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy noãn của người hiến tặng được thủy tinh hóa và làm ấm bằng MWP cho thấy tỷ lệ hình thành phôi nang và kết quả mang thai cao hơn so với noãn được làm ấm bằng CWP. Do đó, MWP hứa hẹn là một phương pháp thay thế vượt trội hơn CWP trong thực hành lâm sàng. Nghiên cứu này còn cho thấy việc giảm thời gian bù nước và duy trì nhiệt độ làm ấm ở 37 °C có thể giúp cải thiện kết quả lâm sàng.

Tài liệu tham khảo:
Lee CI, Chen HH, Lin SH, Huang CC, Lin PY, Lee TH, Chen MJ, Lee MS, Chen CH. Improved clinical outcomes with a modified warming protocol in donor oocyte cycles. J Ovarian Res. 2025 Aug 16;18(1):187. doi: 10.1186/s13048-025-01776-2. PMID: 40819040; PMCID: PMC12357474.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Năm 2020

Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...

Sách “Bài giảng Thực hành Sản khoa” do các giảng viên Bộ ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK