Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 05-09-2025 1:24am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Ngô Thị Lan Phương
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, Bệnh viện Đa khoa Gia Đình Đà Nẵng


Giới thiệu
Hội chứng buồng trứng đa nang (Polycystic Ovary Syndrome-PCOS) hiện nay chiếm tới 70% các trường hợp vô sinh không rụng trứng cần thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Ngoài tác động đến khả năng sinh sản, PCOS khiến phụ nữ dễ gặp các biến chứng thai kỳ, bao gồm rối loạn tăng huyết áp và đái tháo đường thai kỳ (gestational diabetes mellitus-GDM), đồng thời gây ra những tác động lâu dài đến sức khỏe của con cái, chẳng hạn như nhẹ cân khi sinh, lớn so với tuổi thai (large for gestational age – LGA), hạ đường huyết ở trẻ sơ sinh và dị tật bẩm sinh. Mặc dù sinh lý bệnh chính xác của PCOS vẫn còn khó nắm bắt, một số nghiên cứu gần đây cho thấy các rối loạn chuyển hóa, đặc biệt là kháng insulin (insulin resistance-IR), béo phì và rối loạn lipid máu, là nguyên nhân sinh bệnh và tiến triển của PCOS. IR và tăng insulin máu bù trừ phổ biến ở khoảng 75% bệnh nhân PCOS. Những tình trạng này làm trầm trọng thêm tình trạng tăng androgen máu bằng cách kích thích sản xuất quá mức androgen trong các tế bào vỏ buồng trứng và ức chế quá trình tổng hợp globulin liên kết với hormone sinh dục ở gan, kéo dài tình trạng không rụng trứng và rậm lông. Béo phì, ảnh hưởng đến khoảng 50% phụ nữ PCOS, làm trầm trọng thêm mức độ IR và tình trạng tăng androgen buồng trứng chức năng, cũng như gây viêm buồng trứng và làm giảm chất lượng noãn. Rối loạn lipid máu, phổ biến ở 70% trường hợp, làm gián đoạn quá trình sinh steroid nang noãn và quá trình trưởng thành của noãn thông qua độc tính mỡ và stress oxy hóa, làm giảm chất lượng phôi và rối loạn chức năng nhau thai.
Vì những rối loạn chuyển hóa này không tác động riêng lẻ mà thay vào đó tương tác nhau để làm trầm trọng thêm rối loạn chức năng sinh sản liên quan đến PCOS, nên cần có các chỉ số chuyển hóa tích hợp để cung cấp đánh giá toàn diện hơn về tình trạng chuyển hóa. Các thông số chuyển hóa riêng lẻ, chẳng hạn như đánh giá mô hình cân bằng nội môi cho IR (homeostatic model assessment for IR - HOMA-IR), chỉ số khối cơ thể (body mass index - BMI) và triglyceride, đã được nghiên cứu như những yếu tố dự báo tiềm năng về kết quả TTTON ở phụ nữ mắc PCOS. Tuy nhiên, các nghiên cứu vẫn chưa nhất quán và không có kết luận và thường không xét đến sự tương tác giữa các yếu tố chuyển hóa. Gần đây, chỉ số triglyceride-glucose (TyG) ngày càng được chú ý như một dấu hiệu thay thế hiệu quả về chi phí và mạnh mẽ của IR. Bằng cách kết hợp chỉ số TyG với BMI, TyG-BMI không chỉ cải thiện hiệu quả của nó trong việc đánh giá IR mà còn phản ánh rối loạn chức năng chuyển hóa liên quan đến béo phì.
Mặc dù giá trị của TyG-BMI được công nhận trong việc đánh giá rủi ro chuyển hóa, nhưng hiện nay có rất ít nghiên cứu về mối quan hệ giữa TyG-BMI và kết quả sinh sản ở những phụ nữ mắc PCOS, và hầu hết các kết quả tập trung vào các chu kỳ chuyển phôi tươi (fresh embryo transfer - ET), thiếu dữ liệu về kết quả sản khoa và trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, chính sách trữ phôi toàn bộ là lựa chọn tốt hơn cho bệnh nhân PCOS để giảm nguy cơ mắc hội chứng quá kích buồng trứng (ovarian hyperstimulation syndrome - OHSS) và có thể đồng bộ hóa phôi-nội mạc tử cung. Để giải quyết những lo ngại này, nghiên cứu này được tiến hành trên những phụ nữ PCOS đã trải qua chu kỳ chuyển phôi trữ (frozen embryo transfer – FET) đầu tiên của họ để điều tra tác động của TyG-BMI đối với kết quả mang thai, sản khoa và trẻ sơ sinh.
Phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này được tiến hành tại Trung tâm Y học Sinh sản, Bệnh viện Phụ nữ và Trẻ em thuộc Đại học Ninh Ba, từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 1 năm 2024. Nghiên cứu bao gồm những phụ nữ được chẩn đoán mắc PCOS dựa trên Tiêu chí Rotterdam. Bệnh nhân được phân loại thành bốn nhóm theo tứ phân vị của TyG-BMI (Tứ phân vị 1 (Q1): < 172,6, Tứ phân vị 2 (Q2): 172,6-197,5, Tứ phân vị 3 (Q3): 197,5-225,0, Tứ phân vị 4 (Q4): ≥ 225,0).
TyG-BMI được tính như sau: TyG-BMI = logarit tự nhiên [TG (mg/dL) × FBG (mg/dL)/2] × BMI (kg/m2); BMI = cân nặng (kg)/[chiều cao (m)] 2
Trong đó:
+ FBG: Đường huyết lúc đói
+ TC: cholesterol toàn phần
Kết quả
Tổng cộng có 744 phụ nữ được đưa vào phân tích. Sau khi điều chỉnh các biến phụ, TyG-BMI cho thấy mối tương quan nghịch với tỷ lệ trẻ sinh sống và mối tương quan thuận với nguy cơ sảy thai và đái tháo đường thai kỳ (GDM) (P < 0,05).
Kết quả mang thai: Có 410 (55,1%) phụ nữ sinh con sống sau chu kỳ chuyển phôi trữ.

  • Tỷ lệ sảy thai có xu hướng tăng từ Q1 (8,9%) đến Q4 (27,9%) và phân tích hồi quy logistic cho thấy mối tương quan dương ổn định giữa TyG-BMI và tỷ lệ sảy thai ở cả ba mô hình (P < 0,001). So với Q1, nhóm Q3 (OR, 1,13; 95% KTC, 1,02–1,25) và Q4 (OR, 1,26; 95% KTC, 1,12–1,41) cho thấy nguy cơ sảy thai cao hơn đáng kể sau khi điều chỉnh hoàn toàn các biến phụ.

  • Tỷ lệ trẻ sinh sống giảm từ Q1 (60,8%) xuống Q4 (47,3%) và có tương quan nghịch với TyG-BMI trong cả ba mô hình (P < 0,05). So với Q1, phụ nữ trong Q4 có khả năng sinh con sống sau khi hiệu chỉnh hoàn toàn thấp hơn đáng kể (OR, 0,86; 95% KTC, 0,76-0,97). Tuy nhiên, không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê nào được quan sát thấy giữa TyG-BMI và tỷ lệ thai sinh hóa và thai lâm sàng sau lần chuyển phôi trữ đầu tiên trong cả ba mô hình hồi quy (P > 0,05).

Kết quả sản khoa và trẻ sơ sinh: Có 360 trẻ sinh đơn (78,3%) và 100 trẻ sinh đôi (21,7%) được sinh ra trong thời gian nghiên cứu. Các biến chứng sản khoa và kết quả sơ sinh được phân tầng theo tứ phân vị TyG-BMI. 

  • Tỷ lệ mắc GDM tăng từ 9,7% trong Q1 lên 35,2% trong Q4 (P < 0,001), với sự gia tăng song song được quan sát thấy ở tỷ lệ thai to (Q1: 4,8% so với Q4: 12,2%, P = 0,036) và tỷ lệ LGA (Q1: 12,7% so với Q4: 32,7%, P < 0,001).

  • Cân nặng khi sinh đơn ở Q4 vượt quá cân nặng Q1–Q3 (P = 0,048), trong khi cân nặng khi sinh đôi vẫn tương đương nhau giữa các tứ phân vị (P > 0,05). Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân có xu hướng tăng không đáng kể từ Q1 (12,7%) đến Q4 (18,4%) (P = 0,257). Không có sự khác biệt thống kê nào được ghi nhận giữa các tứ phân vị TyG-BMI về HDP, rối loạn nhau thai, tuổi thai, sinh non, SGA và dị tật bẩm sinh (P > 0,05).

Như vậy, các mô hình RCS (Restricted cubic spline) chứng minh mối quan hệ tuyến tính giữa TyG-BMI với tỷ lệ sảy thai, nguy cơ GDM và nguy cơ lớn theo tuổi thai (P-tổng thể < 0,05, P-phi tuyến tính > 0,05).
Tỷ lệ mắc ĐTĐTK có liên quan thuận với tứ phân vị TyG-BMI trong cả ba mô hình (P < 0,05). Trong mô hình điều chỉnh đầy đủ, phụ nữ trong Q3 (OR 1,18, 95% KTC 1,04-1,33) và Q4 (OR 1,18, 95% KTC 1,03-1,36) cho thấy nguy cơ ĐTĐTK cao hơn 18% so với những phụ nữ trong Q1. Đáng chú ý, nguy cơ ĐTĐTK trung bình (LGA) cho thấy mối tương quan thuận với TyG-BMI sau khi điều chỉnh theo tuổi mẹ và thời gian vô sinh (P < 0,001), với nguy cơ ĐTĐTK trung bình tăng 21% trong Q4 so với Q1 (OR 1,21, 95% KTC 1,09-1,35). Tuy nhiên, khi điều chỉnh thêm các phác đồ SBP, AMH, TC, COS, tổng liều Gn, thời gian sử dụng Gn, số phôi chuyển, giai đoạn phát triển của phôi chuyển và độ dày nội mạc tử cung ở mô hình 3, không tìm thấy mối tương quan đáng kể nào giữa tỷ lệ LGA và TyG-BMI (P > 0,05). Ngoài ra, tỷ lệ PTB và LBW vẫn không có ý nghĩa thống kê trong tất cả các mô hình (P > 0,05).
Phân tích ROC cho thấy TyG-BMI có giá trị dự báo sảy thai (diện tích dưới đường cong (AUC) = 0,627, P < 0,001) với giá trị ngưỡng là 180,4.
Kết hợp với các yếu tố nguy cơ khác đã được xác định, bao gồm hormone luteinizing cơ bản, hormone kích thích nang trứng cơ bản, tổng lượng cholesterol, testosterone, loại vô sinh và các phác đồ kích thích buồng trứng có kiểm soát, giá trị AUC tăng lên (AUC = 0,667, P < 0,001) và mô hình này cho thấy hiệu suất dự đoán sảy thai tốt ở hầu hết các phân nhóm (AUC > 0,650, P < 0,05), đặc biệt ở những bệnh nhân có cân nặng bình thường hoặc thấp (BMI < 24 kg/m 2 , AUC = 0,743, P < 0,001).
Bàn luận
Đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy giá trị dự báo độc lập của TyG-BMI trong kết quả thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)-chuyển phôi trữ (FET) ở phụ nữ mắc PCOS, cho thấy bệnh nhân PCOS có TyG-BMI cao có thể có nguy cơ sảy thai cao hơn và khả năng sinh con sống thấp hơn, và việc tối ưu hóa chuyển hóa (ví dụ, điều trị bằng metformin, can thiệp lối sống) nên được khuyến nghị trước khi TTTON để cải thiện kết quả thai kỳ. Bên cạnh đó, việc đưa các kết quả sản khoa và sơ sinh vào phân tích và lần đầu tiên phát hiện mối tương quan giữa TyG-BMI trước khi thụ thai và nguy cơ GDM và LGA sau chuyển phôi (FET) ở bệnh nhân PCOS, cho thấy cần tăng cường theo dõi sức khỏe chuyển hóa trong thai kỳ và theo dõi sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh ở bệnh nhân PCOS có TyG-BMI cao hơn, điều này cung cấp góc nhìn lâm sàng toàn diện hơn cho nghiên cứu.
Hạn chế
Thiết kế hồi cứu đơn trung tâm, nên có thể bỏ qua sai lệch lựa chọn, mặc dù đã giảm thiểu tác động của các yếu tố gây nhiễu bằng các tiêu chí bao gồm và loại trừ nghiêm ngặt.
Hơn nữa, mặc dù chiến lược FET loại trừ các tác động tiềm ẩn của kích thích buồng trứng lên nội mạc tử cung, nhưng chỉ số TyG-BMI đã được đo trước COS và các biến động trước FET không được theo dõi. Điều này có thể dẫn đến việc bỏ qua các biến thể tiềm ẩn trong giá trị TyG-BMI trước FET do các can thiệp chuyển hóa như dùng thuốc và giảm cân. Do đó, cần có các nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu - đặc biệt là các nghiên cứu đánh giá các can thiệp chuyển hóa được hướng dẫn bởi TyG-BMI - để xác nhận kết quả của nghiên cứu này và tối ưu hóa kết quả lâm sàng trong tương lai.

Kết luận
Nồng độ TyG-BMI cao hơn có liên quan độc lập với nguy cơ gia tăng các kết quả sinh sản bất lợi ở phụ nữ mắc PCOS đang TTTON (FET). Ngoài ra, TyG-BMI được chứng minh là một công cụ hiệu quả về mặt chi phí để xác định sớm các nhóm nguy cơ cao trong số bệnh nhân PCOS, cho phép can thiệp cá nhân hóa trước khi TTTON nhằm tối ưu hóa kết quả sinh sản ở nhóm bệnh nhân này.

Tài liệu tham khảo:
Ding Z, Liao K, Liang K, Zhang S, Pei Z, Zhang F, Zhou L, Xu C. The triglyceride glucose-body mass index predicts adverse reproductive outcomes in women with polycystic ovary syndrome undergoing frozen embryo transfer. Front Endocrinol (Lausanne). 2025 Jul 30;16:1629837. doi: 10.3389/fendo.2025.1629837. PMID: 40810075; PMKTCD: PMC12343246.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Năm 2020

Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...

Sách “Bài giảng Thực hành Sản khoa” do các giảng viên Bộ ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK