Tin tức
on Sunday 01-06-2025 10:38pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN Lê Ngọc Quế Anh – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Khi sinh ra, buồng trứng của con người chứa hàng triệu nang nguyên thủy bao gồm các noãn chưa trưởng thành bị ngừng ở giai đoạn túi mầm (germinal vesicle - GV). Chỉ khoảng 400 noãn sẽ trưởng thành và hoàn thành quá trình giảm phân trong suốt cuộc đời sinh sản của phụ nữ thông qua chọn lọc tự nhiên.
Trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc kích thích buồng trứng bằng gonadotrophin với liều lượng cao hơn mức sinh lý nhằm mục đích tạo ra nhiều nang noãn phát triển và trưởng thành để thu được nhiều noãn và phôi từ đó tăng khả năng có thai. Tuy nhiên kết quả của kích thích huồng trứng là sự không đồng bộ trong phát triển nang noãn và sự khác biệt về số lượng, chất lượng, khả năng sống, tiềm năng và giai đoạn trưởng thành giảm phân của noãn thu được. Tỷ lệ noãn chưa trưởng thành (ở giai đoạn GV hoặc kỳ giữa giảm phân I – MI) thu được dao động khoảng 15-30%. Sự thiếu đồng bộ trong đáp ứng buồng trứng có thể phản ánh chất lượng tổng thể của lứa noãn. Các tác giả bài báo cho rằng các noãn trưởng thành (giai đoạn kỳ giữa II giảm phân - MII) trong một lứa có tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cao có thể không hoàn toàn có tiềm năng phát triển bình thường. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cao có thể ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng phát triển của các noãn trưởng thành cùng lứa. Một số nghiên cứu đã ghi nhận mối tương quan nghịch giữa tỷ lệ noãn chưa trưởng thành với tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ thai, và sự phát triển phôi kém. Điều này gợi ý rằng, ngoài sự trưởng thành của nhân, sự trưởng thành của bào tương và màng tế bào cũng rất cần thiết cho tiềm năng phát triển của noãn MII. Chỉ số trưởng thành của noãn cũng cung cấp thông tin tiên lượng quan trọng về khả năng có thai trong các chu kỳ ICSI.
Mặc dù chưa có bằng chứng chất lượng cao cho thấy việc lựa chọn phôi bằng các thuật toán từ TLI (time-lapse imaging) vượt trội hơn so với đánh giá hình thái tĩnh thông thường về tiềm năng làm tổ và tỷ lệ sinh sống, động học hình thái của phôi vẫn có thể được sử dụng như một công cụ để loại bỏ (deselect) các phôi kém tiềm năng. Mục tiêu của nghiên cứu này là điều tra ảnh hưởng của tỷ lệ noãn chưa trưởng thành đến các thông số động học hình thái của phôi được tạo ra từ các noãn trưởng thành trong cùng một lứa.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 12 năm 2020. Nghiên cứu phân tích dữ liệu động học từ 3368 phôi. Các phôi này có nguồn gốc từ 474 bệnh nhân đang thực hiện chu kỳ ICSI đầu tiên.
Các mốc động học được ghi lại bao gồm: thời gian xuất hiện tiền nhân (tPNa), biến mất tiền nhân (tPNf), thời gian đến 2 (t2), 3 (t3), 4 (t4), 5 (t5), 6 (t6), 7 (t7), 8 tế bào (t8), thời gian đến phôi dâu (tM), thời gian bắt đầu tạo phôi nang (tSB) và thời gian tạo phôi nang hoàn chỉnh (tB)
Thời gian của chu kỳ tế bào thứ hai (cc2, t3-t2), thứ ba (cc3, t5-t3), thời gian hoàn thành phân chia đồng bộ: s1 (t2-tPNf), s2 (t4-t3), s3 (t8-t5) được ghi nhận. Dữ liệu từ EmbryoScope+ được phân tích bằng phần mềm EmbryoViewer (Vitrolife). Đồng thời, tỷ lệ đa nhân ở giai đoạn 2 và 4 tế bào, và tỷ lệ phân chia bất thường (phân chia trực tiếp hoặc ngược) được ghi lại cho mỗi phôi.
Các kết quả về tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai lâm sàng trên mỗi lần chuyển phôi, tỷ lệ sảy thai cũng được ghi nhận lại.
Kết quả
Từ 4120 noãn được thu nhận, có 3130 noãn trưởng thành ở giai đoạn metaphase II (MII), chiếm 76,0% (trung vị: 80,0%). Tổng số noãn chưa trưởng thành là 990, bao gồm 660 noãn ở giai đoạn túi mầm (GV) và 330 ở giai đoạn metaphase I (MI), tương ứng với tỷ lệ 16,0% (trung vị: 10,0%) và 8,0% (trung vị: 6,7%).
Tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cho thấy mối liên hệ có ý nghĩa thống kê với sự chậm trễ trong các mốc thời gian phát triển phôi. Các hệ số hồi quy tuyến tính (B) cho thấy mỗi đơn vị tăng tỷ lệ noãn chưa trưởng thành làm kéo dài thời gian xuất hiện hoặc hoàn tất của các mốc phát triển phôi như sau:
Ngoài ra, chỉ số KIDScore, phản ánh tiềm năng phát triển của phôi, có mối tương quan nghịch với tỷ lệ noãn chưa trưởng thành (B = –0,046; 95% KTC: –0,081 đến –0,010; P = 0,012).
Thảo luận
Mặc dù tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cao liên quan đến động học phát triển phôi chậm hơn, nghiên cứu đề xuất một số lý do có thể giải thích tại sao các kết quả lâm sàng lại không bị ảnh hưởng đáng kể. Một khả năng là ngay cả khi có tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cao, phần còn lại của nhóm noãn trưởng thành vẫn có sự phát triển phôi bình thường và tiềm năng làm tổ. Một khả năng khác là tỷ lệ noãn chưa trưởng thành có tác động tiêu cực lên sự phát triển sớm của phôi, nhưng sau đó là sự làm tổ bình thường.
Tuy nhiên, lý do được nhấn mạnh nhất là việc sử dụng hệ thống hình ảnh time-lapse (TLI) cho phép xác định và loại bỏ (de-selection) các phôi có kiểu phát triển động học bất thường hoặc chậm phát triển để chuyển phôi. Việc lựa chọn phôi để chuyển dựa trên thuật toán KIDScore có thể đã góp phần vào việc chuyển phôi có chất lượng tốt hơn, cả về hình thái và thông số động học.... Khả năng de-selection phôi có động học kém nhờ TLI có thể là yếu tố chính giải thích tại sao kết quả lâm sàng không bị ảnh hưởng đáng kể trong nghiên cứu này.... Tuy nhiên, cần có thêm nghiên cứu để xác nhận giả thuyết này.
Cơ sở khoa học cho sự ảnh hưởng của tỷ lệ noãn chưa trưởng thành lên động học phôi vẫn cần được làm rõ thêm. Các tác giả suy đoán rằng noãn từ nhóm có tỷ lệ trưởng thành thất bại cao có thể có bộ máy sinh học kém hiệu quả do quá trình trưởng thành bào tương (cytoplasmic maturation) không hoàn chỉnh. Sự trưởng thành bào tươnglà cần thiết để kích hoạt các con đường tín hiệu di truyền và thượng di truyền liên quan đến sự phát triển phôi. Sự trưởng thành không hoàn chỉnh có thể dẫn đến đa nhân và lệch bội (aneuploidy), làm giảm chất lượng phôi và khả năng làm tổ sau đó. Phát hiện của nghiên cứu về mối liên hệ giữa tỷ lệ noãn chưa trưởng thành, tốc độ phát triển phôi và đa nhân ở giai đoạn 2 và 4 tế bào củng cố giả thuyết này.
Nghiên cứu cũng lưu ý rằng việc chọc hút tất cả các nang noãn, bất kể kích thước, có thể là nguyên nhân dẫn đến một số noãn chưa trưởng thành, vì noãn tốt hơn thường được thu nhận từ các nang lớn hơn. Ảnh hưởng của động lực nang noãn (follicular dynamics), không được xem xét trong nghiên cứu này, cũng có thể đã ảnh hưởng đến kết quả.
Nghiên cứu này là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu với số lượng chu kỳ ICSI tương đối nhỏ (mặc dù đủ mạnh về mặt thống kê cho kết quả chính tB). Tính chất hồi cứu và việc không xem xét động lực nang noãn là những hạn chế cần được lưu ý khi diễn giải kết quả. Vẫn chưa rõ liệu việc không thấy tác động đáng kể lên kết quả lâm sàng là do việc de-selection phôi hiệu quả hay do không có mối liên hệ thực sự giữa các biến.
Kết luận
Tăng tỷ lệ noãn chưa trưởng thành có liên quan đến sự chậm trễ trong phân chia tế bào và giai đoạn phát triển phôi nang. Những phát hiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghệ theo dõi phôi liên tục (Time-Lapse Imaging - TLI) trong việc nhận diện và loại trừ các phôi có tốc độ phát triển chậm ra khỏi quá trình lựa chọn phôi chuyển, đặc biệt trong các chu kỳ có tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cao.
Nguồn: Setti A, Braga D, Guilherme P, Iaconelli A Jr, Borges E Jr. High oocyte immaturity rates affect embryo morphokinetics: lessons of time-lapse imaging system. Reprod Biomed Online. 2022 Oct;45(4):652-660. doi: 10.1016/j.rbmo.2022.06.005. Epub 2022 Jun 14. PMID: 35940974.
Giới thiệu
Khi sinh ra, buồng trứng của con người chứa hàng triệu nang nguyên thủy bao gồm các noãn chưa trưởng thành bị ngừng ở giai đoạn túi mầm (germinal vesicle - GV). Chỉ khoảng 400 noãn sẽ trưởng thành và hoàn thành quá trình giảm phân trong suốt cuộc đời sinh sản của phụ nữ thông qua chọn lọc tự nhiên.
Trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc kích thích buồng trứng bằng gonadotrophin với liều lượng cao hơn mức sinh lý nhằm mục đích tạo ra nhiều nang noãn phát triển và trưởng thành để thu được nhiều noãn và phôi từ đó tăng khả năng có thai. Tuy nhiên kết quả của kích thích huồng trứng là sự không đồng bộ trong phát triển nang noãn và sự khác biệt về số lượng, chất lượng, khả năng sống, tiềm năng và giai đoạn trưởng thành giảm phân của noãn thu được. Tỷ lệ noãn chưa trưởng thành (ở giai đoạn GV hoặc kỳ giữa giảm phân I – MI) thu được dao động khoảng 15-30%. Sự thiếu đồng bộ trong đáp ứng buồng trứng có thể phản ánh chất lượng tổng thể của lứa noãn. Các tác giả bài báo cho rằng các noãn trưởng thành (giai đoạn kỳ giữa II giảm phân - MII) trong một lứa có tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cao có thể không hoàn toàn có tiềm năng phát triển bình thường. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cao có thể ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng phát triển của các noãn trưởng thành cùng lứa. Một số nghiên cứu đã ghi nhận mối tương quan nghịch giữa tỷ lệ noãn chưa trưởng thành với tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ thai, và sự phát triển phôi kém. Điều này gợi ý rằng, ngoài sự trưởng thành của nhân, sự trưởng thành của bào tương và màng tế bào cũng rất cần thiết cho tiềm năng phát triển của noãn MII. Chỉ số trưởng thành của noãn cũng cung cấp thông tin tiên lượng quan trọng về khả năng có thai trong các chu kỳ ICSI.
Mặc dù chưa có bằng chứng chất lượng cao cho thấy việc lựa chọn phôi bằng các thuật toán từ TLI (time-lapse imaging) vượt trội hơn so với đánh giá hình thái tĩnh thông thường về tiềm năng làm tổ và tỷ lệ sinh sống, động học hình thái của phôi vẫn có thể được sử dụng như một công cụ để loại bỏ (deselect) các phôi kém tiềm năng. Mục tiêu của nghiên cứu này là điều tra ảnh hưởng của tỷ lệ noãn chưa trưởng thành đến các thông số động học hình thái của phôi được tạo ra từ các noãn trưởng thành trong cùng một lứa.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 12 năm 2020. Nghiên cứu phân tích dữ liệu động học từ 3368 phôi. Các phôi này có nguồn gốc từ 474 bệnh nhân đang thực hiện chu kỳ ICSI đầu tiên.
Các mốc động học được ghi lại bao gồm: thời gian xuất hiện tiền nhân (tPNa), biến mất tiền nhân (tPNf), thời gian đến 2 (t2), 3 (t3), 4 (t4), 5 (t5), 6 (t6), 7 (t7), 8 tế bào (t8), thời gian đến phôi dâu (tM), thời gian bắt đầu tạo phôi nang (tSB) và thời gian tạo phôi nang hoàn chỉnh (tB)
Thời gian của chu kỳ tế bào thứ hai (cc2, t3-t2), thứ ba (cc3, t5-t3), thời gian hoàn thành phân chia đồng bộ: s1 (t2-tPNf), s2 (t4-t3), s3 (t8-t5) được ghi nhận. Dữ liệu từ EmbryoScope+ được phân tích bằng phần mềm EmbryoViewer (Vitrolife). Đồng thời, tỷ lệ đa nhân ở giai đoạn 2 và 4 tế bào, và tỷ lệ phân chia bất thường (phân chia trực tiếp hoặc ngược) được ghi lại cho mỗi phôi.
Các kết quả về tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai lâm sàng trên mỗi lần chuyển phôi, tỷ lệ sảy thai cũng được ghi nhận lại.
Kết quả
Từ 4120 noãn được thu nhận, có 3130 noãn trưởng thành ở giai đoạn metaphase II (MII), chiếm 76,0% (trung vị: 80,0%). Tổng số noãn chưa trưởng thành là 990, bao gồm 660 noãn ở giai đoạn túi mầm (GV) và 330 ở giai đoạn metaphase I (MI), tương ứng với tỷ lệ 16,0% (trung vị: 10,0%) và 8,0% (trung vị: 6,7%).
Tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cho thấy mối liên hệ có ý nghĩa thống kê với sự chậm trễ trong các mốc thời gian phát triển phôi. Các hệ số hồi quy tuyến tính (B) cho thấy mỗi đơn vị tăng tỷ lệ noãn chưa trưởng thành làm kéo dài thời gian xuất hiện hoặc hoàn tất của các mốc phát triển phôi như sau:
- tPNa (B = 0,055; 95% KTC: 0,046–0,063; P < 0,001)
- tPNf (B = 0,083; 95% KTC: 0,071–0,095; P < 0,001)
- t2 (B = 0,077; 95% KTC: 0,065–0,089; P < 0,001)
- t3 (B = 0,070; 95% KTC: 0,056–0,083; P < 0,001)
- t4 (B = 0,069; 95% KTC: 0,055–0,084; P < 0,001)
- t5 (B = 0,080; 95% KTC: 0,061–0,100; P < 0,001)
- t6 (B = 0,065; 95% KTC: 0,045–0,085; P < 0,001)
- t7 (B = 0,077; 95% KTC: 0,055–0,098; P < 0,001)
- t8 (B = 0,065; 95% KTC: 0,041–0,089; P < 0,001)
- tSB (B = 0,095; 95% KTC: 0,020–0,171; P = 0,013)
- tB (B = 0,044; 95% KTC: 0,012–0,076; P = 0,007)
- cc3 (B = 0,016; 95% KTC: 0,003–0,029; P = 0,018)
- Tỷ lệ làm tổ (B = 2,081; 95% KTC: –3,043 đến 7,205; P = 0,426)
- Tỷ lệ có thai lâm sàng (OR = 1,004; 95% KTC: 0,945–1,066; P = 0,899)
- Tỷ lệ sẩy thai (OR = 0,963; 95% KTC: 0,795–1,167; P = 0,702)
Ngoài ra, chỉ số KIDScore, phản ánh tiềm năng phát triển của phôi, có mối tương quan nghịch với tỷ lệ noãn chưa trưởng thành (B = –0,046; 95% KTC: –0,081 đến –0,010; P = 0,012).
Thảo luận
Mặc dù tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cao liên quan đến động học phát triển phôi chậm hơn, nghiên cứu đề xuất một số lý do có thể giải thích tại sao các kết quả lâm sàng lại không bị ảnh hưởng đáng kể. Một khả năng là ngay cả khi có tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cao, phần còn lại của nhóm noãn trưởng thành vẫn có sự phát triển phôi bình thường và tiềm năng làm tổ. Một khả năng khác là tỷ lệ noãn chưa trưởng thành có tác động tiêu cực lên sự phát triển sớm của phôi, nhưng sau đó là sự làm tổ bình thường.
Tuy nhiên, lý do được nhấn mạnh nhất là việc sử dụng hệ thống hình ảnh time-lapse (TLI) cho phép xác định và loại bỏ (de-selection) các phôi có kiểu phát triển động học bất thường hoặc chậm phát triển để chuyển phôi. Việc lựa chọn phôi để chuyển dựa trên thuật toán KIDScore có thể đã góp phần vào việc chuyển phôi có chất lượng tốt hơn, cả về hình thái và thông số động học.... Khả năng de-selection phôi có động học kém nhờ TLI có thể là yếu tố chính giải thích tại sao kết quả lâm sàng không bị ảnh hưởng đáng kể trong nghiên cứu này.... Tuy nhiên, cần có thêm nghiên cứu để xác nhận giả thuyết này.
Cơ sở khoa học cho sự ảnh hưởng của tỷ lệ noãn chưa trưởng thành lên động học phôi vẫn cần được làm rõ thêm. Các tác giả suy đoán rằng noãn từ nhóm có tỷ lệ trưởng thành thất bại cao có thể có bộ máy sinh học kém hiệu quả do quá trình trưởng thành bào tương (cytoplasmic maturation) không hoàn chỉnh. Sự trưởng thành bào tươnglà cần thiết để kích hoạt các con đường tín hiệu di truyền và thượng di truyền liên quan đến sự phát triển phôi. Sự trưởng thành không hoàn chỉnh có thể dẫn đến đa nhân và lệch bội (aneuploidy), làm giảm chất lượng phôi và khả năng làm tổ sau đó. Phát hiện của nghiên cứu về mối liên hệ giữa tỷ lệ noãn chưa trưởng thành, tốc độ phát triển phôi và đa nhân ở giai đoạn 2 và 4 tế bào củng cố giả thuyết này.
Nghiên cứu cũng lưu ý rằng việc chọc hút tất cả các nang noãn, bất kể kích thước, có thể là nguyên nhân dẫn đến một số noãn chưa trưởng thành, vì noãn tốt hơn thường được thu nhận từ các nang lớn hơn. Ảnh hưởng của động lực nang noãn (follicular dynamics), không được xem xét trong nghiên cứu này, cũng có thể đã ảnh hưởng đến kết quả.
Nghiên cứu này là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu với số lượng chu kỳ ICSI tương đối nhỏ (mặc dù đủ mạnh về mặt thống kê cho kết quả chính tB). Tính chất hồi cứu và việc không xem xét động lực nang noãn là những hạn chế cần được lưu ý khi diễn giải kết quả. Vẫn chưa rõ liệu việc không thấy tác động đáng kể lên kết quả lâm sàng là do việc de-selection phôi hiệu quả hay do không có mối liên hệ thực sự giữa các biến.
Kết luận
Tăng tỷ lệ noãn chưa trưởng thành có liên quan đến sự chậm trễ trong phân chia tế bào và giai đoạn phát triển phôi nang. Những phát hiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghệ theo dõi phôi liên tục (Time-Lapse Imaging - TLI) trong việc nhận diện và loại trừ các phôi có tốc độ phát triển chậm ra khỏi quá trình lựa chọn phôi chuyển, đặc biệt trong các chu kỳ có tỷ lệ noãn chưa trưởng thành cao.
Nguồn: Setti A, Braga D, Guilherme P, Iaconelli A Jr, Borges E Jr. High oocyte immaturity rates affect embryo morphokinetics: lessons of time-lapse imaging system. Reprod Biomed Online. 2022 Oct;45(4):652-660. doi: 10.1016/j.rbmo.2022.06.005. Epub 2022 Jun 14. PMID: 35940974.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK