Tin tức
on Sunday 01-06-2025 9:29pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
Tổng quan
Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology – ART), chất lượng noãn đóng vai trò then chốt trong việc quyết định chất lượng và tiềm năng phát triển của phôi. Các tập hợp lưới nội chất trơn (Smooth Endoplasmic Reticulum aggregates – SERa) lần đầu tiên được mô tả vào năm 1997, là một bất thường bào tương đặc trưng bởi hình dạng đĩa dẹt, tròn, trong suốt, tập trung ở trung tâm bào tương của noãn. Năm 2004, một trường hợp trẻ mắc hội chứng Beckwith-Wiedemann được báo cáo sau khi chuyển phôi từ noãn có SERa. Một số nghiên cứu tiếp theo chỉ ra rằng chu kỳ có noãn SERa+ có thể liên quan đến tỉ lệ trẻ sinh sống giảm và nguy cơ dị tật bẩm sinh cao hơn. Do những nguy cơ tiềm ẩn này, Hội nghị Istanbul năm 2011 đã khuyến cáo không sử dụng noãn có SERa trong thực hành IVF. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác lại không ghi nhận sự gia tăng dị tật bẩm sinh hay tỉ lệ mang thai giảm ở các phôi bắt nguồn từ noãn SERa+, và chỉ khoảng 14% trung tâm IVF thực hiện loại bỏ noãn SERa+. Do sự không nhất quán giữa các kết quả, Hội nghị Vienna (Alpha/ESHRE) năm 2017 đã điều chỉnh khuyến cáo, đề xuất đánh giá theo từng trường hợp cụ thể.
Hiện nay, các nghiên cứu lâm sàng về SERa chủ yếu tập trung vào các chu kỳ sử dụng ICSI hoặc IVF cổ điển. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các nghiên cứu đánh giá tác động của SERa trong chu kỳ phân chia (IVF-ICSI) lên sự phát triển phôi và kết cục lâm sàng. Nghiên cứu này nhằm mục đích là đánh giá toàn diện ảnh hưởng của SERa lên kết quả phôi giai đoạn sớm, cũng như kết quả thai kỳ và sơ sinh. Từ đó cung cấp cơ sở khoa học nhằm tối ưu hóa chiến lược chuyển phôi và nâng cao hiệu quả điều trị trong ART.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu thực hiện tại Trung tâm Y học Sinh sản, Bệnh viện Phụ nữ và Trẻ em tỉnh Hải Nam, Trung Quốc từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2023. Tiêu chí lựa chọn bao gồm chu kỳ phân chia (IVF-ICSI), chọc hút noãn tươi và phụ nữ <40 tuổi. Những trường hợp bị loại khỏi nghiên cứu gồm: phụ nữ >40 tuổi; số lượng noãn thu được ≤3; sử dụng noãn đã trữ đông/rã đông hoặc noãn hiến tặng; các trường hợp nam giới có vấn đề về tinh hoàn, thực hiện chọc hút tinh trùng mào tinh qua da (Percutaneous epididymal sperm aspiration – PESA), hoặc tinh trùng dị dạng nặng; các chu kỳ thất bại thụ tinh hoàn toàn (Total fertilization failure – TFF); chu kỳ có áp dụng xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing – PGT); và những bệnh nhân không có dữ liệu lâm sàng ban đầu hoặc không được theo dõi đầy đủ.
Nghiên cứu chia thành 2 nhóm: nhóm SERa+ (có ít nhất một noãn xuất hiện SERa); và nhóm SERa–.
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SPSS phiên bản 27.0.
Kết quả
Tổng cộng 1.353 chu kỳ IVF-ICSI được đưa vào phân tích, gồm 283 chu kỳ SERa+ và 1.070 chu kỳ SERa–. Trong nhóm SERa+, ghi nhận 588 noãn SERa+, trong đó 5,8% thuộc nhóm IVF cổ điển và 94,2% thuộc nhóm ICSI. Trung bình, mỗi chu kỳ SERa+ có 2,08±1,74 noãn SERa. Tỉ lệ noãn SERa+ trên tổng số noãn thu được là 13,73%.
Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về độ tuổi bệnh nhân, thời gian vô sinh, loại vô sinh (nguyên phát hay thứ phát), chỉ số khối cơ thể (BMI), cũng như các chỉ số nội tiết cơ bản như FSH, LH, E2, P4 và AMH. Tuy nhiên, nhóm SERa+ có nồng độ estradiol (E2) vào ngày tiêm hCG cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm SERa–. Ngoài ra, số lượng noãn thu được trung bình trong nhóm SERa+ cũng cao hơn. Không ghi nhận sự khác biệt giữa hai nhóm về tổng liều gonadotropin sử dụng và số ngày kích thích buồng trứng.
Xét về kết quả phôi, bao gồm tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ thụ tinh bình thường, tỉ lệ phân chia, tỉ lệ phát triển phôi nang, tỉ lệ phôi nang chất lượng cao và tỉ lệ phôi nang hữu dụng, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm. Tuy nhiên, nhóm SERa+ cho thấy tỉ lệ phôi ngày 3 chất lượng cao cao hơn đáng kể so với nhóm SERa– (42,68% so với 38,37%; P=0,001). Đối với các chu kỳ ICSI, không có sự khác biệt giữa hai nhóm về tỉ lệ noãn trưởng thành (MII), tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ thụ tinh bình thường, tỉ lệ phân chia, tỉ lệ hình thành phôi nang, hay tỉ lệ phôi nang chất lượng cao. Tuy nhiên, tỉ lệ phôi ngày 3 chất lượng cao cao hơn ở nhóm SERa+ (46,38% so với 40,11%; P=0,001). Đối với chu kỳ IVF cổ điển, không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống giữa nhóm SERa+ và SERa– về các tỉ lệ nói trên.
Xét về kết quả lâm sàng, tổng cộng có 147 chu kỳ SERa+ và 637 chu kỳ SERa– thực hiện chuyển phôi tươi. Kết quả phân tích cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về tỉ lệ beta hCG dương, tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ sảy thai sớm, tỉ lệ trẻ sinh sống, tỉ lệ sinh non, cũng như chiều dài và cân nặng của trẻ sơ sinh. Đặc biệt, không có trường hợp dị tật bẩm sinh nào được ghi nhận ở cả hai nhóm.
Bàn luận
Nghiên cứu này tập trung vào các bệnh nhân thực hiện chu kỳ phân chia IVF-ICSI và phân tích ảnh hưởng của SERa đến tiềm năng phát triển cũng như kết quả lâm sàng của các phôi cùng chu kỳ được thụ tinh bằng cả IVF và ICSI. Kết quả nghiên cứu cho thấy SERa có liên quan đến tình trạng nội tiết trong chu kỳ kích thích buồng trứng nhưng không ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển phôi, kết quả thai kỳ hay sức khỏe sơ sinh. Do đó, noãn có SERa không nên bị loại bỏ hoàn toàn. Cần có thêm các nghiên cứu quy mô lớn nhằm làm rõ nguyên nhân, cơ chế và hậu quả của hiện tượng này.
Nguồn: Li Y, Hu J, Lu H, Lu Z, Zhong J, Shi L. Oocytes with aggregates of smooth endoplasmic reticulum may not affect reproductive outcomes in split IVF-ICSI insemination: a retrospective study. Front Endocrinol (Lausanne). 2025;16:1567066. Published 2025 Apr 29. doi:10.3389/fendo.2025.1567066.
Tổng quan
Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology – ART), chất lượng noãn đóng vai trò then chốt trong việc quyết định chất lượng và tiềm năng phát triển của phôi. Các tập hợp lưới nội chất trơn (Smooth Endoplasmic Reticulum aggregates – SERa) lần đầu tiên được mô tả vào năm 1997, là một bất thường bào tương đặc trưng bởi hình dạng đĩa dẹt, tròn, trong suốt, tập trung ở trung tâm bào tương của noãn. Năm 2004, một trường hợp trẻ mắc hội chứng Beckwith-Wiedemann được báo cáo sau khi chuyển phôi từ noãn có SERa. Một số nghiên cứu tiếp theo chỉ ra rằng chu kỳ có noãn SERa+ có thể liên quan đến tỉ lệ trẻ sinh sống giảm và nguy cơ dị tật bẩm sinh cao hơn. Do những nguy cơ tiềm ẩn này, Hội nghị Istanbul năm 2011 đã khuyến cáo không sử dụng noãn có SERa trong thực hành IVF. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác lại không ghi nhận sự gia tăng dị tật bẩm sinh hay tỉ lệ mang thai giảm ở các phôi bắt nguồn từ noãn SERa+, và chỉ khoảng 14% trung tâm IVF thực hiện loại bỏ noãn SERa+. Do sự không nhất quán giữa các kết quả, Hội nghị Vienna (Alpha/ESHRE) năm 2017 đã điều chỉnh khuyến cáo, đề xuất đánh giá theo từng trường hợp cụ thể.
Hiện nay, các nghiên cứu lâm sàng về SERa chủ yếu tập trung vào các chu kỳ sử dụng ICSI hoặc IVF cổ điển. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các nghiên cứu đánh giá tác động của SERa trong chu kỳ phân chia (IVF-ICSI) lên sự phát triển phôi và kết cục lâm sàng. Nghiên cứu này nhằm mục đích là đánh giá toàn diện ảnh hưởng của SERa lên kết quả phôi giai đoạn sớm, cũng như kết quả thai kỳ và sơ sinh. Từ đó cung cấp cơ sở khoa học nhằm tối ưu hóa chiến lược chuyển phôi và nâng cao hiệu quả điều trị trong ART.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu thực hiện tại Trung tâm Y học Sinh sản, Bệnh viện Phụ nữ và Trẻ em tỉnh Hải Nam, Trung Quốc từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2023. Tiêu chí lựa chọn bao gồm chu kỳ phân chia (IVF-ICSI), chọc hút noãn tươi và phụ nữ <40 tuổi. Những trường hợp bị loại khỏi nghiên cứu gồm: phụ nữ >40 tuổi; số lượng noãn thu được ≤3; sử dụng noãn đã trữ đông/rã đông hoặc noãn hiến tặng; các trường hợp nam giới có vấn đề về tinh hoàn, thực hiện chọc hút tinh trùng mào tinh qua da (Percutaneous epididymal sperm aspiration – PESA), hoặc tinh trùng dị dạng nặng; các chu kỳ thất bại thụ tinh hoàn toàn (Total fertilization failure – TFF); chu kỳ có áp dụng xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing – PGT); và những bệnh nhân không có dữ liệu lâm sàng ban đầu hoặc không được theo dõi đầy đủ.
Nghiên cứu chia thành 2 nhóm: nhóm SERa+ (có ít nhất một noãn xuất hiện SERa); và nhóm SERa–.
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SPSS phiên bản 27.0.
Kết quả
Tổng cộng 1.353 chu kỳ IVF-ICSI được đưa vào phân tích, gồm 283 chu kỳ SERa+ và 1.070 chu kỳ SERa–. Trong nhóm SERa+, ghi nhận 588 noãn SERa+, trong đó 5,8% thuộc nhóm IVF cổ điển và 94,2% thuộc nhóm ICSI. Trung bình, mỗi chu kỳ SERa+ có 2,08±1,74 noãn SERa. Tỉ lệ noãn SERa+ trên tổng số noãn thu được là 13,73%.
Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về độ tuổi bệnh nhân, thời gian vô sinh, loại vô sinh (nguyên phát hay thứ phát), chỉ số khối cơ thể (BMI), cũng như các chỉ số nội tiết cơ bản như FSH, LH, E2, P4 và AMH. Tuy nhiên, nhóm SERa+ có nồng độ estradiol (E2) vào ngày tiêm hCG cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm SERa–. Ngoài ra, số lượng noãn thu được trung bình trong nhóm SERa+ cũng cao hơn. Không ghi nhận sự khác biệt giữa hai nhóm về tổng liều gonadotropin sử dụng và số ngày kích thích buồng trứng.
Xét về kết quả phôi, bao gồm tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ thụ tinh bình thường, tỉ lệ phân chia, tỉ lệ phát triển phôi nang, tỉ lệ phôi nang chất lượng cao và tỉ lệ phôi nang hữu dụng, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm. Tuy nhiên, nhóm SERa+ cho thấy tỉ lệ phôi ngày 3 chất lượng cao cao hơn đáng kể so với nhóm SERa– (42,68% so với 38,37%; P=0,001). Đối với các chu kỳ ICSI, không có sự khác biệt giữa hai nhóm về tỉ lệ noãn trưởng thành (MII), tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ thụ tinh bình thường, tỉ lệ phân chia, tỉ lệ hình thành phôi nang, hay tỉ lệ phôi nang chất lượng cao. Tuy nhiên, tỉ lệ phôi ngày 3 chất lượng cao cao hơn ở nhóm SERa+ (46,38% so với 40,11%; P=0,001). Đối với chu kỳ IVF cổ điển, không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống giữa nhóm SERa+ và SERa– về các tỉ lệ nói trên.
Xét về kết quả lâm sàng, tổng cộng có 147 chu kỳ SERa+ và 637 chu kỳ SERa– thực hiện chuyển phôi tươi. Kết quả phân tích cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về tỉ lệ beta hCG dương, tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ sảy thai sớm, tỉ lệ trẻ sinh sống, tỉ lệ sinh non, cũng như chiều dài và cân nặng của trẻ sơ sinh. Đặc biệt, không có trường hợp dị tật bẩm sinh nào được ghi nhận ở cả hai nhóm.
Bàn luận
Nghiên cứu này tập trung vào các bệnh nhân thực hiện chu kỳ phân chia IVF-ICSI và phân tích ảnh hưởng của SERa đến tiềm năng phát triển cũng như kết quả lâm sàng của các phôi cùng chu kỳ được thụ tinh bằng cả IVF và ICSI. Kết quả nghiên cứu cho thấy SERa có liên quan đến tình trạng nội tiết trong chu kỳ kích thích buồng trứng nhưng không ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển phôi, kết quả thai kỳ hay sức khỏe sơ sinh. Do đó, noãn có SERa không nên bị loại bỏ hoàn toàn. Cần có thêm các nghiên cứu quy mô lớn nhằm làm rõ nguyên nhân, cơ chế và hậu quả của hiện tượng này.
Nguồn: Li Y, Hu J, Lu H, Lu Z, Zhong J, Shi L. Oocytes with aggregates of smooth endoplasmic reticulum may not affect reproductive outcomes in split IVF-ICSI insemination: a retrospective study. Front Endocrinol (Lausanne). 2025;16:1567066. Published 2025 Apr 29. doi:10.3389/fendo.2025.1567066.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK