Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, Bệnh viện Gia Đình, Đà Nẵng
Chất lượng của noãn có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi trong toàn bộ quá trình, từ khi thụ tinh đến khi sinh con. Một số yếu tố nội tại như di truyền, thượng di truyền và bên ngoài như phác đồ kích thích buồng trứng (KTBT), ô nhiễm môi trường đã được phát hiện có thể ảnh hưởng đến khả năng phát triển của noãn. Do đó, để tăng tỷ lệ thành công của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (HTSS), một trong những cách tiếp cận chính là lựa chọn noãn dựa trên chất lượng. Tuy nhiên, các noãn bào có tế bào chất không đồng nhất có thể có năng lực phát triển ngang bằng với các noãn bào bình thường, ngoại trừ các noãn bào có lưới nội chất trơn (Smooth endoplasmic reticulum aggregates - SERa). SERa là những cấu trúc có dạng các đĩa phẳng giống như không bào trong suốt trong noãn bào. Chúng là các cụm lớn SER hình ống được bao quanh bởi các hạt dày đặc và ty thể. Cơ chế chính xác về sự ảnh hưởng của SERa vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng người ta cho rằng phác đồ KTBT không tối ưu (ví dụ, nồng độ estradiol và progesterone tăng cao, cũng như thời gian kích thích kéo dài) có thể gây ra sự hình thành SERa.
Theo một số nghiên cứu, noãn SERa + có tỷ lệ phôi phân chia thấp hơn, khả năng phát triển thấp, tỷ lệ sẩy thai và dị tật thai nhi/trẻ sơ sinh sớm cao hơn cũng như các vấn đề sản khoa. Về vấn đề này, Hiệp hội Sinh sản và Phôi học Con người Châu Âu (European Society of Human Reproduction and Embryology - ESHRE) vào năm 2011 đã khuyến nghị không thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) cho noãn SERa + trong các chu kỳ HTSS. Ngoài các biến chứng đã đề cập ở trên, các nghiên cứu đã chứng minh rằng tỷ lệ thụ tinh, khả năng phát triển phôi và kết quả thai của noãn không bị ảnh hưởng được lấy từ các chu kỳ có SERa (SERa +) đều giảm khi so sánh với các noãn từ các chu kỳ không có SERa (SERa-). Ngược lại, một số bằng chứng cho thấy SERa không có bất kỳ ảnh hưởng đáng kể nào đến tỷ lệ lệch bội/bất thường của phôi và khả năng sinh ra trẻ khỏe mạnh. Do đó, cần có nhiều nghiên cứu hơn trên các quần thể lớn hơn để xác định tầm quan trọng của SERa không chỉ ở các tế bào noãn bị ảnh hưởng mà còn ở kết quả của toàn bộ tế bào noãn được thu nhận từ các chu kỳ có SERa.
Mục tiêu nghiên cứu
So sánh kết quả điều trị trong chu kỳ SERa + và SERa- và xác định xem kết quả của các tế bào noãn không bị ảnh hưởng trong chu kỳ SERa + có khác với kết quả trong chu kỳ SERa- hay không. Ngoài ra, nghiên cứu về tỷ lệ mắc chu kỳ SERa + ở những phụ nữ có nguyên nhân vô sinh cụ thể để tìm hiểu xem nguy cơ mắc SERa có khác nhau giữa các nhóm vô sinh do yếu tố vợ hay không.
Phương pháp
Nghiên cứu cắt ngang tiến cứu này được thực hiện tại phòng khám hiếm muộn của Bệnh viện Al-Zahra, Rasht, Iran từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 3 năm 2023. Ngoại trừ các cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp, vô sinh nam nặng (như oligoasthenozoospermia) và các trường hợp lấy tinh trùng từ phẫu thuật tinh hoàn, tổng cộng 315 phụ nữ được chỉ định TTTON lần đầu tiên đã được đưa vào nghiên cứu. Số lượng bệnh nhân được ghi nhận ở hai nhóm SERa+ ( n = 73) và SERa- (n = 217).
Kết quả
-
Bệnh nhân SERa+ có biểu hiện nồng độ estradiol cao hơn vào ngày tiêm mũi rụng trứng (p=0,02)
-
Về kết quả điều trị, không có sự khác biệt về số lượng noãn thu được, tỷ lệ trưởng thành và tỷ lệ thụ tinh của noãn giữa các nhóm. Tuy nhiên, chất lượng của noãn không bị ảnh hưởng (p=0,03), tỷ lệ phôi chất lượng tốt ngày 3 (p=0,01 và p=0,03 tương ứng với độ A và B) và thai lâm sàng (p = 0,05) ở nhóm SERa + đã giảm đáng kể.
-
Hơn nữa, tỷ lệ chu kỳ SERa + có xu hướng tăng dần theo thứ tự bệnh nhân có lạc nội mạc tử cung, suy buồng trứng sớm/đáp ứng kém, buồng trứng đa nang, yếu tố ống dẫn trứng, phụ nữ bình thường (nhóm vô sinh nam) và nhóm chưa rõ nguyên nhân.
Nghiên cứu này cho thấy rằng các tình trạng không tối ưu như nồng độ estradiol tăng cao trong các chu kỳ KTBT có thể làm tăng sự xuất hiện của noãn SERa +. Phát hiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tối ưu hóa KTBT trong việc cải thiện kết quả sinh sản trong điều trị vô sinh.
Hơn nữa, đây là nghiên cứu đầu tiên khảo sát tỷ lệ SERa+ ở phụ nữ với các nguyên nhân vô sinh khác nhau, kết quả cho thấy rằng chu kỳ SERa+ phổ biến hơn ở nhóm phụ nữ bị vô sinh không rõ nguyên nhân. Phát hiện này làm nổi bật vấn đề cần nghiên cứu sâu hơn về mối liên hệ giữa các nguyên nhân gây vô sinh, đặc biệt là vô sinh không rõ nguyên nhân, với sự xuất hiện của SERa.
Ngoài ra, tiềm năng phát triển của noãn từ các chu kỳ SERa+, đặc biệt là ở các giai đoạn sau như chất lượng phôi ngày 3 và tỷ lệ có thai lâm sàng, đều bị suy giảm so với các chu kỳ SERa-. Hiện tượng này càng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cá nhân hóa và tối ưu hóa phác đồ KTBT, đồng thời cho thấy sự xuất hiện của noãn SERa+ có thể được xem như một dấu hiệu chỉ điểm cho tình trạng KTBT không tối ưu.
Tài liệu tham khảo
Bài báo nghiên cứu: Ghanami Gashti N, Hosseini SZ, Qasemi M, Kabodmehri R, Zahiri Sorouri Z, Bahadori MH. Smooth endoplasmic reticulum aggregates in human oocytes are related to female infertility etiology and diminished reproductive outcomes. Sci Rep. 2025 Feb 28;15(1):7160. doi: 10.1038/s41598-024-78366-7. PMID: 40021655; PMCID: PMC11871009.










Tiền Hội nghị: Trung tâm Hội nghị Grand Saigon, thứ bảy ngày ...
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...