Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 26-05-2025 11:17pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Huỳnh Yến Vy – IVFMD Phú Nhuận – Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận

Các bệnh truyền nhiễm phổ biến như viêm gan B (HBV), viêm gan C (HCV) và giang mai vẫn tiếp tục là gánh nặng lớn đối với y tế công cộng trên toàn cầu, do đặc điểm dịch tễ phức tạp với tỷ lệ lưu hành cao, khả năng lây truyền mạnh và nguy cơ gây ra các hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe, bao gồm cả tử vong. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), vào năm 2019, ước tính có khoảng 295,9 triệu người – tương đương với 3,8% dân số toàn cầu – đang sống chung với virus viêm gan B mạn tính. Đồng thời, khoảng 57,8 triệu người (0,8% dân số toàn cầu) được ghi nhận nhiễm virus viêm gan C. Bên cạnh đó, bệnh giang mai – một bệnh lây truyền qua đường tình dục do xoắn khuẩn Treponema pallidum gây ra – cũng là một vấn đề dịch tễ đáng lo ngại với khoảng 6,3 triệu ca mắc mới hằng năm trên phạm vi toàn cầu. Tình trạng lưu hành kéo dài của các bệnh lý truyền nhiễm này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh, mà còn đặt ra thách thức nghiêm trọng đối với hệ thống y tế, đặc biệt tại các quốc gia có dân số đông và hệ thống chăm sóc sức khỏe còn nhiều hạn chế. Điều này đòi hỏi phải có chiến lược kiểm soát hiệu quả và dài hạn, bao gồm giám sát dịch tễ, chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời và các biện pháp can thiệp cộng đồng nhằm ngăn ngừa lây lan trong dân số.

Song song đó, vô sinh hiện đang được xem là một vấn đề sức khỏe toàn cầu mang tính cấp bách, ảnh hưởng đến hàng triệu cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản. Tỷ lệ vô sinh có sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực địa lý, bị chi phối bởi nhiều yếu tố bao gồm bệnh lý nền, môi trường sống, thói quen sinh hoạt và đặc biệt là các bệnh lý lây truyền qua đường tình dục, trong đó có HBV, HCV và giang mai. Mặc dù các bệnh truyền nhiễm này có thể được kiểm soát tốt hơn nhờ sự phát triển của các liệu pháp kháng virus hiệu quả, tuy nhiên, tác động lâu dài của chúng đến chức năng sinh sản, cả ở nam và nữ, vẫn đang là vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn. Trong bối cảnh đó, thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) ngày càng trở thành lựa chọn phổ biến cho các cặp vợ chồng vô sinh, bao gồm cả những người bị ảnh hưởng bởi các bệnh truyền nhiễm mạn tính. Việc sử dụng IVF không chỉ giúp hiện thực hóa mong muốn làm cha mẹ, mà còn tạo cơ hội để áp dụng các biện pháp kiểm soát lây truyền dọc (từ mẹ sang con) đối với các bệnh như viêm gan B và C.

Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều khoảng trống trong bằng chứng khoa học về việc liệu nhiễm HBV, HCV hoặc giang mai có ảnh hưởng bất lợi đến hiệu quả điều trị IVF, tỷ lệ có thai, các biến chứng sản khoa cũng như kết cục sơ sinh hay không. Đặc biệt, một số nghiên cứu đã bắt đầu tập trung khám phá mối liên quan giữa tình trạng nhiễm HBV và các chỉ số chất lượng phôi, tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ mang thai lâm sàng và các chỉ số về kết cục thai kỳ. Kết quả từ những nghiên cứu này hiện vẫn chưa thống nhất và còn hạn chế về quy mô mẫu cũng như thiết kế nghiên cứu, cho thấy cần có thêm các nghiên cứu sâu rộng và có đối chứng chặt chẽ để làm rõ mối quan hệ nhân quả và hỗ trợ xây dựng phác đồ điều trị IVF tối ưu cho nhóm bệnh nhân đặc thù này.
Mục tiêu: Xác định tính an toàn và hiệu quả của các thủ thuật IVF đối với các cặp vợ chồng bị nhiễm HBV, HCV hoặc giang mai và cung cấp hướng dẫn lâm sàng cho các cặp vợ chồng đang phải đối mặt với những thách thức này.

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 1 năm 2011 đến tháng 12 năm 2019, với thời gian theo dõi kéo dài đến tháng 12 năm 2020. Trong số 180.666 chu kỳ, có 2.443 chu kỳ đáp ứng. Việc sàng lọc huyết thanh đối với bốn bệnh truyền nhiễm chính (HBV, HCV, giang mai và HIV) thường được tiến hành trước khi các cặp đôi trải qua điều trị IVF trong khung thời gian 6 tháng. Cụ thể hơn, có 1997 chu kỳ cho nhóm nghiên cứu HBV, 154 chu kỳ cho nhóm nghiên cứu HCV và 292 chu kỳ cho nhóm nghiên cứu giang mai. Mỗi chu kỳ nghiên cứu được ghép với bốn đối chứng, tạo ra 7988 đối chứng cho nhóm HBV, 616 đối chứng cho nhóm HCV và 1169 đối chứng cho nhóm giang mai.

Kết quả:
  • Về đặc điểm cơ bản
  • Trong nhóm HBV, độ tuổi trung bình là 33,5 tuổi, với chỉ số BMI trung bình là 22,4±3,1kg/m2 trong nhóm nghiên cứu và 22,7±3,6kg/m2 trong nhóm đối chứng (P<0,08).
  • Trong nhóm HCV, độ tuổi trung bình là 35,5 tuổi, với BMI trung bình là 21,9±2,9kg/m2 trong nhóm nghiên cứu và 22,7±3,3kg/m2 trong nhóm đối chứng (P<0,01).
  • Trong nhóm giang mai, một số yếu tố cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm, bao gồm BMI (P<0,04), thời gian vô sinh (P<0,01), nguyên nhân vô sinh (P<0,001), các yếu tố về ống dẫn trứng (P<0,001) và các yếu tố nam giới (P<0,04).
  • Kết quả lâm sàng
Đối với HBV, các tỉ lệ bao gồm thai ngoài tử cung, sẩy thai, trẻ sinh sống và mang song thai, tương tự so với nhóm đối chứng. Tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn ở nhóm HBV so với nhóm đối chứng (45,2% so với 45,5%) nhưng không có ý nghĩa thống kê. Kết quả trẻ sinh sống không có sự khác biệt về tuổi thai  (37,9±2,3 tuần so với 38,0±2,3 tuần) hoặc cân nặng của trẻ khi sinh đối với cả trẻ đơn thai và trẻ song sinh.

Trong nhóm HCV, tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn trong nhóm nghiên cứu (36,4% so với 42,2%). Không có sự khác biệt về kết quả mang thai hoặc trẻ sơ sinh. Tương tự như vậy, không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy trong kết quả mang thai hoặc sơ sinh trong nhóm giang mai.
  • Khi phân tích nhóm phụ (lây nhiễm chỉ ở nữ và lây nhiễm chỉ ở nam) đối với HBV, HCV và giang mai. Trong nhóm HBV, tỷ lệ sẩy thai ở nhóm phụ lây nhiễm chỉ ở nam cao hơn trong nhóm nghiên cứu so với nhóm đối chứng (22,5% so với 17,7%). Đối với nhóm HCV và giang mai, không có sự khác biệt ở nhóm phụ lây nhiễm chỉ ở nữ hoặc nhóm phụ lây nhiễm chỉ ở nam.
Kết luận: Những bệnh nhân nhiễm HCV có liên quan với việc giảm tỷ lệ mang thai lâm sàng khi so sánh với nhóm đối chứng, trong khi nhiễm HBV chỉ ở nam giới biểu hiện sự gia tăng tỷ lệ sẩy thai. Tuy nhiên, nhiễm HBV, HCV hoặc giang mai không ảnh hưởng đáng kể đến kết quả mang thai và trẻ sơ sinh ở các cặp đôi đang điều trị IVF. Những kết quả nghiên cứu cung cấp thêm thông tin trong quá trình tư vấn lâm sàng với các cặp đôi bị nhiễm HBV, HCV hoặc giang mai, tạo điều kiện cho việc ra quyết định liên quan đến quá trình điều trị hỗ trợ sinh sản.

Tài liệu tham khảo: Liu F, Wang Z, Song Y, Tian T, Li R, Qiao J, Huang S, Wang Y. The impact of HBV, HCV, or syphilis infections on embryo and pregnancy outcomes in couples undergoing IVF treatment: a matched cohort study. Hum Reprod Open. 2025 Mar 18;2025(2):hoaf015. doi: 10.1093/hropen/hoaf015. PMID: 40171332; PMCID: PMC11961197.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK