Tin tức
on Monday 19-05-2025 11:32pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS Đào Thục Hiền, BS Lê Thị Hà Xuyên
Nhóm Nghiên cứu Lạc nội mạc tử cung & Adenomyosis BV Mỹ Đức (SEAMD)
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là tình trạng tế bào nội mạc tử cung nằm ngoài, ở những vị trí khác tử cung. Một trong các tình trạng liên quan đến LNMTC có thể có là đề kháng progesterone. Điều này dẫn đến giả thuyết rằng phụ nữ bị LNMTC có thể cần nồng độ progesterone cao hơn so với nhóm phụ nữ không bị LNMTC. Nghiên cứu đoàn hệ quan sát tại bệnh viện thuộc trường đại học của tác giả Bourdon đăng trên Human Reproduction năm 2024 so sánh nồng độ progesterone huyết thanh vào ngày chuyển phôi trữ bằng chu kì nội tiết ngoại sinh trên những bệnh nhân bị LNMTC với những phụ nữ không bị LNMTC để xem liệu bệnh nhân bị LNMTC có cần nồng độ progesterone cao hơn so với nhóm không bị hay không.
Nghiên cứu đoàn hệ quan sát bao gồm tất cả các quy trình chuyển phôi trữ bằng phác đồ nội tiết ngoại sinh từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 12 năm 2021. Các tiêu chí lựa chọn bao gồm: (i) điều trị hỗ trợ sinh sản (ii) tuổi < 43 tại thời điểm chọc hút noãn, (iii) chuyển phôi trữ (FET) ở giai đoạn phôi nang, (iv) chuẩn bị nội mạc tử cung bằng phác đồ nội tiết ngoại sinh, có hoặc không có down regulation trước đó bằng GnRH đồng vận. Tiêu chí loại bao gồm: (i) hủy chuyển phôi, (ii) FET từ noãn trữ đông hoặc noãn hiến, (iii) phôi hiến, (iv) chuẩn bị nội mạc tử cung bằng chu kỳ tự nhiên hoặc kích thích buồng trứng nhẹ, (v) sử dụng progesterone đường tiêm để hỗ trợ giai đoạn hoàng thể. Các chu kỳ thiếu dữ liệu và không thể theo dõi sau đó đã bị loại khỏi nghiên cứu. Mỗi bệnh nhân chỉ được đưa vào phân tích một lần. Không tiến hành xét nghiệm di truyền tiền làm tổ trong nghiên cứu này.
Chẩn đoán và phân giai đoạn LNMTC dựa trên các tiêu chí hình ảnh được thực hiện bằng siêu âm đầu dò âm đạo và/hoặc MRI. Các tổn thương lạc nội mạc tử cung được phân loại thành ba kiểu hình: Lạc nội mạc tử cung nông (Superficial Peritoneal Disease, SUP), LNMTC buồng trứng (Ovarian endometrioma, OMA), hoặc LNMTC sâu (Deep infiltrating endometriosis, DIE). Bệnh nhân được phân loại dựa vào nhóm tổn thương nghiêm trọng nhất của họ, theo thứ tự từ ít nghiêm trọng đến nghiêm trọng: SUP, OMA, DIE. Ngoài ra, những phụ nữ có tiền sử phẫu thuật LNMTC trước đó, chẩn đoán được xác nhận thông qua giải phẫu bệnh. Nội mạc tử cung được chuẩn bị bằng phác đồ nội tiết ngoại sinh. Estrogen bắt đầu vào ngày 1 của chu kỳ kinh nguyệt, bao gồm estrogen qua da (0,2 mg/ngày, đồng thời hai miếng dán Vivelledot® 100) hoặc đường uống (8 mg/ngày, Provames). Sau 10–14 ngày dùng estrogen, siêu âm đầu dò âm đạo đo độ dày nội mạc tử cung, và xác định nồng độ progesterone huyết thanh, đảm bảo rằng không có phóng noãn tự nhiên. Nếu EMT ≥ 6 mm và nồng độ progesterone < 1,5 ng/ml, FET được lên lịch. Việc bổ sung progesterone bắt đầu năm ngày trước FET, với progesterone đặt âm đạo hàng ngày liều 600 mg (200mg x 3 lần/ ngày, Utrogestan). Vào ngày chuyển phôi, bệnh nhân được dùng 1 viên thuốc progesterone lúc 8-9 giờ sáng, nồng độ P được đo vào từ 10 giờ đến 11 giờ sáng. Các mẫu máu được phân tích bằng phương pháp miễn dịch điện hóa phát quang. Các bác sĩ, chuyên viên phôi học và bệnh nhân đều không được biết kết quả. Tất cả các quy trình FET được thực hiện bởi các bác sĩ có kinh nghiệm dưới hướng dẫn của siêu âm. Những phụ nữ có thai tiếp tục sử dụng cùng liều progesterone và estrogen cho đến 12 tuần thai. Sinh sống được định nghĩa là việc sinh ra một trẻ sơ sinh còn sống ở tuần thai thứ 22 trở đi.
Tổng cộng 1784 bệnh nhân đã được đo nồng độ P vào ngày FET. Tỷ lệ sinh sống (LBR) chung là 560/1784 (31,4%). LBR ở phụ nữ bị LNMTC là 179/560 (32,0%), so với 381/1224 (31,1%) ở phụ nữ không bị LNMTC (P = 0,724). Không có sự khác biệt đáng kể về nồng độ P giữa phụ nữ bị LNMTC và những người không bị (lần lượt là 13,6 ± 4,3 ng/ml so với 13,2 ± 4,4 ng/ml; P = 0,302) (Bảng 1, Hình 2). Tương tự, đối với phân tích nhóm nhỏ phụ nữ bị adenomyosis, nồng độ P trung bình không khác biệt đáng kể giữa phụ nữ bị bệnh (n = 100) và phụ nữ không bị (n = 460) (lần lượt là 12,6 ± 3,7 ng/ml so với 13,5 ± 4,5 ng/ml; P = 0,073) (Hình 2). Đối với phụ nữ bị DIE (n = 142), adenomyosis lan tỏa (n = 80) hoặc adenomyosis khu trú (n = 36), không có sự khác biệt đáng kể về nồng độ P được quan sát thấy giữa ba nhóm nhỏ này so với những bệnh nhân không bị các tình trạng này mà có HRT-FET sinh sống (Hình 3).
Sau phân tích hồi quy đa biến, sự hiện diện của LNMTC (0,34; KTC 95%: -0,44 đến 1,12; P = 0,390) và sự hiện diện của adenomyosis (-0,90; KTC 95%: -1,85 đến 0,06; P = 0,065) đều không liên quan đến nồng độ progesterone. Ngược lại, BMI, thời gian hiếm muộn và nguồn gốc địa lý có liên quan đáng kể đến nồng độ progesterone (Bảng 2). Trong nhóm phụ nữ không thụ thai, không thấy sự khác biệt đáng kể nồng độ progesterone vào ngày chuyển phôi giữa những phụ nữ bị LNMTC, adenomyosis, DIE, adenomyosis lan tỏa, hay adenomyosis khu trú với những phụ nữ không bị bệnh (Bảng 2 và 3).
.png)
.png)
.png)
.png)
Hạn chế chính của nghiên cứu liên quan đến thiết kế quan sát. Việc ngoại suy kết quả của cho các phòng thí nghiệm khác hoặc các đường dùng và/hoặc liều lượng progesterone khác nhau cũng cần được xác nhận. Cuối cùng, xác nhận rằng phụ nữ bị LNMTC không cần nồng độ progesterone cao hơn vào ngày FET để đạt được thai sinh sống thành công trong các chu kỳ HRT. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu tiến cứu để xác nhận thêm những phát hiện này.
Nguồn: Bourdon M, Sorel M, Maignien C, Guibourdenche J, Patrat C, Marcellin L, Jobin T, Chapron C, Santulli P; Progesterone levels do not differ between patients with or without endometriosis/adenomyosis both in those who conceive after hormone replacement therapy-frozen embryo transfer cycles and those who do not. Human Reproduction. 2024;39(8):1692-1700. Published 2024 June 07. doi: 10.1093/humrep/deae114.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK