Tin tức
on Sunday 18-05-2025 1:50am
Danh mục: Tin quốc tế
Kỹ sư Nguyễn Thị Nguyệt, Thạc sĩ Nguyễn Thị Liên Thi
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng
Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) ngày càng phổ biến trong điều trị hiếm muộn, với số chu kỳ điều trị tăng từ 62000 vào năm 2011 lên hơn 76000 vào năm 2021 tại Vương quốc Anh (HFEA, 2023). Mặc dù tỷ lệ thành công đã cải thiện đáng kể nhờ các tiến bộ về mặt kỹ thuật, đa thai vẫn được xem là một biến chứng của TTTON, làm gia tăng các rủi ro cho mẹ và thai nhi. Chuyển đơn phôi chọn lọc (Single embryo transfer - SET) là chiến lược chính để giảm tỷ lệ đa thai, đồng thời vẫn duy trì tỷ lệ sinh sống (Live birth rate - LBR).
Các nghiên cứu cho thấy LBR tích lũy của SET có thể tương đương với chuyển hai phôi (Double embryo transfer - DET) khi thực hiện hai lần SET liên tiếp từ cùng một lần chọc hút (2xSET). Tuy nhiên, tỷ lệ sinh đôi ở nhiều quốc gia vẫn cao hơn mức khuyến nghị 10% của ESHRE và HFEA.
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ HFEA để đánh giá xu hướng LBR, tỷ lệ sinh nhiều con và các biến chứng liên quan sau SET, DET và 2xSET ở phụ nữ thực hiện TTTON tại Vương quốc Anh. Các kết quả chính được khảo sát trong nghiên cứu này bao gồm:
Nghiên cứu hồi cứu này sử dụng dữ liệu từ HFEA, bao gồm hồ sơ của tất cả phụ nữ tại Anh trải qua chu kỳ TTTON (IVF hoặc ICSI) đầu tiên với chuyển đơn phôi, chuyển hai phôi hoặc hai lần chuyển đơn phôi từ năm 2010 đến năm 2019 ở những trường hợp sử dụng noãn tự thân. Kết quả được chia nhóm theo độ tuổi mẹ khi ở thời điểm chọc hút noãn (dưới 35, 35–37, 38–39, trên 39 tuổi) để đánh giá ảnh hưởng của yếu tố tuổi. Các trường hợp có chu kỳ SET thứ hai không hoàn thành được loại khỏi nghiên cứu.
Kết quả
Ở phụ nữ trên 39 tuổi, 2xSET có thể đạt tỷ lệ sinh sống (LBR) tương đương DET, trong khi ở nhóm ≤39 tuổi, 2xSET cho LBR tích lũy cao hơn với tỷ lệ sinh đôi và biến chứng thấp hơn. Việc ưu tiên 2xSET trong giai đoạn phôi nang có thể cải thiện LBR, giảm đa thai và tối ưu kết quả cho cả mẹ và em bé. Do đó, hướng dẫn lâm sàng nên khuyến khích SET, đặc biệt nhấn mạnh lợi ích của hai lần SET liên tiếp ở phụ nữ lớn tuổi. Cần nghiên cứu thêm về vai trò của chất lượng phôi trong 2xSET để tối ưu hóa chiến lược chuyển phôi ở cấp độ quốc gia và quốc tế.
Tài liệu tham khảo : Jack Tighe, Sophie Broughton, Rachel Roberts, Lorraine S Kasaven, Rachel Cutting, Elliot Bridges, Abigail Ng, Amanda Evans, Efstathios Theodorou, Jara Ben Nagi, Benjamin P Jones, Effectiveness and safety of consecutive single embryo transfer compared to double embryo transfer: results from the UK HFEA registry, Human Reproduction, 2025;, deaf028, https://doi.org/10.1093/humrep/deaf028
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng
Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) ngày càng phổ biến trong điều trị hiếm muộn, với số chu kỳ điều trị tăng từ 62000 vào năm 2011 lên hơn 76000 vào năm 2021 tại Vương quốc Anh (HFEA, 2023). Mặc dù tỷ lệ thành công đã cải thiện đáng kể nhờ các tiến bộ về mặt kỹ thuật, đa thai vẫn được xem là một biến chứng của TTTON, làm gia tăng các rủi ro cho mẹ và thai nhi. Chuyển đơn phôi chọn lọc (Single embryo transfer - SET) là chiến lược chính để giảm tỷ lệ đa thai, đồng thời vẫn duy trì tỷ lệ sinh sống (Live birth rate - LBR).
Các nghiên cứu cho thấy LBR tích lũy của SET có thể tương đương với chuyển hai phôi (Double embryo transfer - DET) khi thực hiện hai lần SET liên tiếp từ cùng một lần chọc hút (2xSET). Tuy nhiên, tỷ lệ sinh đôi ở nhiều quốc gia vẫn cao hơn mức khuyến nghị 10% của ESHRE và HFEA.
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ HFEA để đánh giá xu hướng LBR, tỷ lệ sinh nhiều con và các biến chứng liên quan sau SET, DET và 2xSET ở phụ nữ thực hiện TTTON tại Vương quốc Anh. Các kết quả chính được khảo sát trong nghiên cứu này bao gồm:
- LBR (Tỷ lệ sinh sống) được định nghĩa là số ca sinh có ít nhất một trẻ sống trên mỗi bệnh nhân.
- LBBR (live born baby rate - Tỷ lệ trẻ sinh sống) được định nghĩa là tổng số trẻ sinh sống trên mỗi bệnh nhân.
- MBR (multiple birth rate - Tỷ lệ sinh đa thai) được định nghĩa là tỷ lệ các ca sinh sống có từ hai trẻ trở lên.
Nghiên cứu hồi cứu này sử dụng dữ liệu từ HFEA, bao gồm hồ sơ của tất cả phụ nữ tại Anh trải qua chu kỳ TTTON (IVF hoặc ICSI) đầu tiên với chuyển đơn phôi, chuyển hai phôi hoặc hai lần chuyển đơn phôi từ năm 2010 đến năm 2019 ở những trường hợp sử dụng noãn tự thân. Kết quả được chia nhóm theo độ tuổi mẹ khi ở thời điểm chọc hút noãn (dưới 35, 35–37, 38–39, trên 39 tuổi) để đánh giá ảnh hưởng của yếu tố tuổi. Các trường hợp có chu kỳ SET thứ hai không hoàn thành được loại khỏi nghiên cứu.
Kết quả
- Tỷ lệ sinh sống
- Chuyển phôi đơn liên tiếp (2xSET) sử dụng phôi giai đoạn phôi nang có tỷ lệ sinh sống cao hơn so với chuyển phôi đơn (SET) hoặc chuyển phôi đôi (DET), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), kết quả LBR lần lượt là 47%, 41%, 38%. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm SET và DET (p > 0,05).
- Tỷ lệ trẻ sinh sống (LBBR) của nhóm SET thấp hơn đáng kể so với nhóm DET, với LBBR lần lượt là 0,42 và 0,47 (p < 0,05).
- Nhóm chuyển phôi đơn liên tiếp hai lần (2xSET) có LBBR cao hơn đáng kể so với SET với LBBR lần lượt là 0,53 và 0,42 (p < 0,05).
- Các biến cố
- Sinh đa thai (nhiều hơn một trẻ): DET có nguy cơ sinh đa thai cao gấp 28,2 lần so với SET (OR = 28,20; khoảng tin cậy 95%: 25,20–31,57)
- Sinh non: Phụ nữ chuyển hai phôi có nguy cơ sinh non cao gấp 2,8 lần so với người chuyển một phôi (OR = 2,80; khoảng tin cậy 95%: 2,67–2,94).
- Sảy thai hoặc tử vong sơ sinh: Nguy cơ sảy thai hoặc trẻ tử vong ngay sau sinh ở nhóm DET cao hơn gấp đôi so với nhóm SET (OR = 2,11; khoảng tin cậy 95%: 1,98–2,24)
- Yếu tố tuổi mẹ
- Chuyển hai phôi nang liên tiếp 2xSET đạt LBR cao nhất ở nhóm phụ nữ trẻ hơn 39 tuổi (p < 0,05). Ở những bệnh nhân trên 39 tuổi, LBR tương đương giữa SET, DET và 2xSET (p > 0,05)
- Ở những bệnh nhân từ 39 tuổi trở xuống, LBBR cao hơn ở nhóm DET và 2xSET so với SET (p < 0,05). LBBR tương đương giữa SET, DET và 2xSET ở phụ nữ trên 39 tuổi.
- Tỷ lệ đa thai, sinh non, sẩy thai hoặc tử vong sơ sinh thay đổi đáng kể theo độ tuổi.
- Chuyển hai phôi luôn có tỷ lệ sinh đa thai cao nhất so với chuyển một phôi và chuyển một phôi hai lần trong cả bốn nhóm tuổi. Tỷ lệ sinh non cao nhất cũng được ghi nhận ở nhóm DET, đặc biệt ở phụ nữ ≤ 39 tuổi. Tỷ lệ sảy thai hoặc tử vong sơ sinh cũng cao nhất ở nhóm DET, nhưng điều này chỉ rõ rệt ở phụ nữ ≤ 37 tuổi. Tuy nhiên, ở phụ nữ ≥ 39 tuổi, không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm (SET, DET, 2xSET) về tỷ lệ sảy thai hoặc tử vong sơ sinh.
Ở phụ nữ trên 39 tuổi, 2xSET có thể đạt tỷ lệ sinh sống (LBR) tương đương DET, trong khi ở nhóm ≤39 tuổi, 2xSET cho LBR tích lũy cao hơn với tỷ lệ sinh đôi và biến chứng thấp hơn. Việc ưu tiên 2xSET trong giai đoạn phôi nang có thể cải thiện LBR, giảm đa thai và tối ưu kết quả cho cả mẹ và em bé. Do đó, hướng dẫn lâm sàng nên khuyến khích SET, đặc biệt nhấn mạnh lợi ích của hai lần SET liên tiếp ở phụ nữ lớn tuổi. Cần nghiên cứu thêm về vai trò của chất lượng phôi trong 2xSET để tối ưu hóa chiến lược chuyển phôi ở cấp độ quốc gia và quốc tế.
Tài liệu tham khảo : Jack Tighe, Sophie Broughton, Rachel Roberts, Lorraine S Kasaven, Rachel Cutting, Elliot Bridges, Abigail Ng, Amanda Evans, Efstathios Theodorou, Jara Ben Nagi, Benjamin P Jones, Effectiveness and safety of consecutive single embryo transfer compared to double embryo transfer: results from the UK HFEA registry, Human Reproduction, 2025;, deaf028, https://doi.org/10.1093/humrep/deaf028
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK