Tin tức
on Sunday 01-06-2025 11:31am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Huỳnh Yến Vy – IVFMD Phú Nhuận – Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), tuổi của bệnh nhân nữ có mối liên hệ chặt chẽ với tỷ lệ phôi tiền làm tổ mang bất thường nhiễm sắc thể (aneuploidy). Tình trạng lệch bội phôi được xem là yếu tố chính làm suy giảm chất lượng phôi và giảm khả năng có thai diễn tiến, đặc biệt thường gặp ở phụ nữ lớn tuổi. Bên cạnh đó, sự kết hợp giữa lệch bội phôi và suy giảm dự trữ buồng trứng theo tuổi là chỉ định hàng đầu cho việc sử dụng noãn hiến trong điều trị vô sinh.
Về phía nam giới, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính rằng các yếu tố nam giới góp phần vào khoảng 40% các trường hợp vô sinh. Các chỉ số quan trọng phản ánh khả năng sinh sản nam bao gồm mật độ tinh trùng, khả năng di động và hình thái tinh trùng. WHO đã đưa ra các giá trị tham chiếu cho các thông số này, với mật độ tinh trùng tối thiểu được coi là bình thường là 16 × 10⁶ tinh trùng/mL tinh dịch ở nam giới có khả năng sinh sản. Vô sinh do yếu tố nam thường liên quan đến bất thường đáng kể về tinh trùng như giảm số lượng, giảm vận động và bất thường hình thái, làm ảnh hưởng đến khả năng thụ tinh.
Việc ra đời của kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) đã cách mạng hóa điều trị vô sinh nam, cho phép thụ tinh xảy ra ngay cả khi tinh trùng không thể tự xâm nhập vào noãn, bằng cách tiêm trực tiếp một tinh trùng duy nhất vào tế bào chất của noãn.
Tuy nhiên, tinh trùng không chỉ đóng vai trò trong việc kích hoạt noãn và cung cấp bộ nhiễm sắc thể của cha, mà còn ảnh hưởng đến các giai đoạn sau của phát triển phôi, bao gồm phân cắt phôi, làm tổ, biểu hiện gen và trạng thái di truyền của phôi. Một số nghiên cứu cho thấy sử dụng tinh trùng có chất lượng kém trong ICSI có thể làm tăng nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể do liên quan đến tỷ lệ loạn bội cao ở tinh trùng. Việc lựa chọn tinh trùng dựa trên hình thái và độ di động hiện tại chưa đảm bảo chắc chắn cho sự hình thành phôi nang có tiềm năng di truyền tốt và dẫn đến ca sinh sống.
Do đó, theo hướng dẫn của Hiệp hội Sinh sản và Phôi học châu Âu (ESHRE), xét nghiệm di truyền tiền làm tổ nhằm phát hiện loạn bội (PGT-A) được khuyến nghị áp dụng trong các trường hợp vô sinh nam nghiêm trọng nhằm nâng cao cơ hội có thai và giảm thiểu nguy cơ bất thường di truyền ở phôi.
Mục tiêu: Sự tác động của mật độ tinh trùng ít (oligozoospermia, < 5 triệu tinh trùng/mL) đối với tình trạng vô sinh do yếu tố nam có ảnh hưởng đến tỷ lệ lệch bội phôi và kết quả lâm sàng sau các chu kỳ hiến tặng noãn.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu về các chu kỳ hiến tặng noãn từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 12 năm 2023. Tổng cộng 690 cặp đôi với mỗi cặp có một chu kỳ điều trị ICSI với noãn của người hiến tặng. Nghiên cứu bao gồm các cặp đôi sử dụng mẫu tinh trùng tươi để điều trị ICSI bằng cách sử dụng noãn tươi hoặc đông lạnh được hiến tặng ẩn danh và các phôi sau đó đạt đến giai đoạn phôi nang được thực hiện xét nghiệm PGT-A. Phân tích tinh dịch của người nam vào ngày ICSI, chia thành ba nhóm dựa trên mật độ tinh trùng:
Lệch bội không phản ánh toàn diện tác động của vô sinh nam nghiêm trọng, do bất thường tinh trùng có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị qua nhiều cơ chế. Tuy nhiên, mật độ tinh trùng thấp không làm giảm tỷ lệ phôi bình thường, hiệu quả IVF hoặc tỷ lệ sinh sống tích lũy trong các chu kỳ sử dụng noãn hiến. Do đó, PGT-A không được khuyến nghị trong bối cảnh này. Dữ liệu hiện có giúp hỗ trợ tư vấn và trấn an bác sĩ lâm sàng cũng như bệnh nhân thực hiện IVF với trứng hiến.
Tài liệu tham khảo: Cozzolino, M., Pellegrini, L., Ottolini, C. S., Capalbo, A., Galliano, D., & Pellicer, A. (2025). The clinical impact of oligozoospermia in oocyte donation ICSI cycles using preimplantation genetic test for aneuploidy. Human Reproduction, deaf080.
Trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), tuổi của bệnh nhân nữ có mối liên hệ chặt chẽ với tỷ lệ phôi tiền làm tổ mang bất thường nhiễm sắc thể (aneuploidy). Tình trạng lệch bội phôi được xem là yếu tố chính làm suy giảm chất lượng phôi và giảm khả năng có thai diễn tiến, đặc biệt thường gặp ở phụ nữ lớn tuổi. Bên cạnh đó, sự kết hợp giữa lệch bội phôi và suy giảm dự trữ buồng trứng theo tuổi là chỉ định hàng đầu cho việc sử dụng noãn hiến trong điều trị vô sinh.
Về phía nam giới, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính rằng các yếu tố nam giới góp phần vào khoảng 40% các trường hợp vô sinh. Các chỉ số quan trọng phản ánh khả năng sinh sản nam bao gồm mật độ tinh trùng, khả năng di động và hình thái tinh trùng. WHO đã đưa ra các giá trị tham chiếu cho các thông số này, với mật độ tinh trùng tối thiểu được coi là bình thường là 16 × 10⁶ tinh trùng/mL tinh dịch ở nam giới có khả năng sinh sản. Vô sinh do yếu tố nam thường liên quan đến bất thường đáng kể về tinh trùng như giảm số lượng, giảm vận động và bất thường hình thái, làm ảnh hưởng đến khả năng thụ tinh.
Việc ra đời của kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) đã cách mạng hóa điều trị vô sinh nam, cho phép thụ tinh xảy ra ngay cả khi tinh trùng không thể tự xâm nhập vào noãn, bằng cách tiêm trực tiếp một tinh trùng duy nhất vào tế bào chất của noãn.
Tuy nhiên, tinh trùng không chỉ đóng vai trò trong việc kích hoạt noãn và cung cấp bộ nhiễm sắc thể của cha, mà còn ảnh hưởng đến các giai đoạn sau của phát triển phôi, bao gồm phân cắt phôi, làm tổ, biểu hiện gen và trạng thái di truyền của phôi. Một số nghiên cứu cho thấy sử dụng tinh trùng có chất lượng kém trong ICSI có thể làm tăng nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể do liên quan đến tỷ lệ loạn bội cao ở tinh trùng. Việc lựa chọn tinh trùng dựa trên hình thái và độ di động hiện tại chưa đảm bảo chắc chắn cho sự hình thành phôi nang có tiềm năng di truyền tốt và dẫn đến ca sinh sống.
Do đó, theo hướng dẫn của Hiệp hội Sinh sản và Phôi học châu Âu (ESHRE), xét nghiệm di truyền tiền làm tổ nhằm phát hiện loạn bội (PGT-A) được khuyến nghị áp dụng trong các trường hợp vô sinh nam nghiêm trọng nhằm nâng cao cơ hội có thai và giảm thiểu nguy cơ bất thường di truyền ở phôi.
Mục tiêu: Sự tác động của mật độ tinh trùng ít (oligozoospermia, < 5 triệu tinh trùng/mL) đối với tình trạng vô sinh do yếu tố nam có ảnh hưởng đến tỷ lệ lệch bội phôi và kết quả lâm sàng sau các chu kỳ hiến tặng noãn.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu về các chu kỳ hiến tặng noãn từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 12 năm 2023. Tổng cộng 690 cặp đôi với mỗi cặp có một chu kỳ điều trị ICSI với noãn của người hiến tặng. Nghiên cứu bao gồm các cặp đôi sử dụng mẫu tinh trùng tươi để điều trị ICSI bằng cách sử dụng noãn tươi hoặc đông lạnh được hiến tặng ẩn danh và các phôi sau đó đạt đến giai đoạn phôi nang được thực hiện xét nghiệm PGT-A. Phân tích tinh dịch của người nam vào ngày ICSI, chia thành ba nhóm dựa trên mật độ tinh trùng:
- Nhóm SO (mật độ <5 triệu tinh trùng/mL): có 202 cặp vợ chồng
- Nhóm MO (mật độ từ 5-16 triệu tinh trùng/mL): có 102 cặp vợ chồng
- Nhóm đối chứng (mật độ ≥16 triệu tinh trùng/mL): có 386 cặp vợ chồng.
- Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê đối với các đặc điểm của người nam, về độ tuổi và chỉ số khối cơ thể giữa các nhóm. Tuy nhiên, có sự khác biệt về mặt thống kê giữa các nhóm về độ tuổi của đối tác nữ (P <0,001), tuổi của người hiến tặng (P< 0,01) và chỉ số khối cơ thể của đối tác nữ cao hơn đáng kể trong nhóm SO so với nhóm đối chứng (P< 0,0048)
- Thực hiện xét nghiệm PGT-A trên tổng số 3777 phôi từ noãn của người hiến tặng có độ tuổi từ 18 đến 35. Có 1272 được xét nghiệm PGT theo phương pháp A, 1343 được xét nghiệm PGT theo phương pháp B và 1162 phôi được xét nghiệm PGT theo phương pháp C. Phương pháp PGT B, tỷ lệ phôi nguyên bội cao hơn so với phương pháp PGT A (P <0,001) và phương pháp PGT C báo cáo tỷ lệ phôi nguyên bội cao hơn về mặt thống kê so với cả hai phương pháp PGT còn lại (P <0,001).
- Về đặc điểm tinh trùng giữa các nhóm, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào về thể tích tinh trùng. Tuy nhiên, những bệnh nhân trong nhóm SO có tỉ lệ di động thấp hơn so với nhóm MO và nhóm đối chứng (16,41 ± 14,41% so với 28,98 ± 15,65% so với 40,07 ± 16,64%) (P <0,0001).
-
Về kết quả phôi học:
- Tỷ lệ thụ tinh ở nhóm SO là 73,33% thấp hơn so với nhóm MO 79,07% (P= 0,01) và nhóm đối chứng 77,80% (P= 0,0004).
- Tỷ lệ hình thành phôi nang (trên mỗi noãn đã thụ tinh) không có sự khác biệt giữa ba nhóm.
- Số lượng phôi nang nguyên bội thấp hơn ở nhóm SO (3,21±2,07) so với nhóm MO (4,05±2,15) (P= 0,007) và nhóm đối chứng (4,09± 2,41) (P<0,001).
- Về kết quả lâm sàng: Có 966 chu kì chuyển phôi tươi (embryo transfer – ET) với 259 chu kì trong nhóm SO, 162 chu kì trong nhóm MO và 545 chu kì trong nhóm đối chứng.
- Tỉ lệ làm tổ (implantation rate - IR) trên ET lần lượt là 69,50%, 66,05% và 65,80% trong các nhóm SO, MO và đối chứng và không có sự khác biệt giữa ba nhóm (P=0,56).
- Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ trẻ sinh con sống và tỷ lệ sẩy thai giữa ba nhóm.
- Tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn (Cumulative live birth rates – CLBR) không cho thấy sự khác biệt thống kê trong nhóm P=0,51 (Hình 2). CLBR sau bốn ET đơn lẻ ở SO là 80,17% (68,54–87,50), trong khi ở MO là 91,29% (60,52–98,08), và ở nhóm đối chứng là 80,01% (68,90–87,16).
Lệch bội không phản ánh toàn diện tác động của vô sinh nam nghiêm trọng, do bất thường tinh trùng có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị qua nhiều cơ chế. Tuy nhiên, mật độ tinh trùng thấp không làm giảm tỷ lệ phôi bình thường, hiệu quả IVF hoặc tỷ lệ sinh sống tích lũy trong các chu kỳ sử dụng noãn hiến. Do đó, PGT-A không được khuyến nghị trong bối cảnh này. Dữ liệu hiện có giúp hỗ trợ tư vấn và trấn an bác sĩ lâm sàng cũng như bệnh nhân thực hiện IVF với trứng hiến.
Tài liệu tham khảo: Cozzolino, M., Pellegrini, L., Ottolini, C. S., Capalbo, A., Galliano, D., & Pellicer, A. (2025). The clinical impact of oligozoospermia in oocyte donation ICSI cycles using preimplantation genetic test for aneuploidy. Human Reproduction, deaf080.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK