Tin tức
on Sunday 01-06-2025 10:29pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN Lê Ngọc Quế Anh – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Trong những thập kỷ qua, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã trở nên phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Mục đích chính của kích thích buồng trứng trong thụ tinh trong ống nghiệm là thu thập được nhiều noãn trưởng thành ở giai đoạn kỳ giữa II (Metaphase II - MII), vì đây là giai đoạn noãn có khả năng thụ tinh khi kết hợp với tinh trùng hoặc sau khi tiêm tinh trùng vào bào tương noãn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc thu nhận noãn non ở giai đoạn MI và GV sau khi kích thích buồng trứng có kiểm soát là điều khá phổ biến trong IVF. Các noãn MI non được mô tả là có màng trong suốt (Zona pellucida – ZP) cấu trúc dày đặc với các tế bào cumulus trơn hoặc phồng dạng bóng. Màng ZP có hai lớp: lớp ngoài xốp thô và lớp trong có các lỗ nhỏ hơn với mạng lưới sợi mảnh
Các trường hợp được báo cáo trước đây về noãn dừng trưởng thành ở giai đoạn MI cho thấy khả năng kháng trưởng thành sau nuôi trưởng thành in vitro (IVM) và không thụ tinh sau ICSI. Cấu trúc màng ZP của các noãn dừng trưởng thành giai đoạn MI được ghi nhận có cấu trúc khoang quanh noãn hẹp và có sự xuất hiện của sợi collagen xơ hóa. Một số nghiên cứu khác ghi nhận màng ZP lõm cùng với khoang quanh noãn hẹp và có tỷ lệ trưởng thành noãn thấp đáng kể. Mục tiêu nghiên cứu là so sánh hai kiểu noãn MI ngừng trưởng thành đặc trưng bởi khoang quanh noãn hẹp theo đặc điểm màng ZP, đồng thời đánh giá khả năng thụ tinh và tiềm năng phát triển của phôi của tất cả noãn MI sau ICSI.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ 03/2017–05/2020, bao gồm 3 bệnh nhân (5 chu kỳ) thu nhận toàn bộ noãn ở giai đoạn MI. Nhóm được phân loại dựa trên đặc điểm màng trong suốt (ZP):
.png)
ICSI hoặc Re-ICSI: Áp dụng khi số tinh trùng di động <5 triệu hoặc tiền sử thất bại thụ tinh. Tinh trùng được chuẩn bị bằng ly tâm thang nồng độ.
Kết quả
Tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ 2PN (hai tiền nhân, dấu hiệu thụ tinh bình thường), và tỷ lệ phân chia của nhóm ZP trơn đều thấp hơn đáng kể so với nhóm ZP lõm (P < 0,05). Điều này tương tự với các báo cáo trước đây về noãn ngừng trưởng thành giai đoạn MI. Ngược lại, các noãn MI có ZP bị lõm có thể được thụ tinh một cách bình thường và phát triển thành phôi nang sau ICSI hoặc Re-ICSI. Nghiên cứu thảo luận về các nguyên nhân có thể dẫn đến sự khác biệt này. Màng ngoài (ZP) của noãn MI đề kháng trưởng thành đã được báo cáo là chưa trưởng thành, hẹp và có cấu trúc sợi. Sự bất thường trong cấu trúc thoi phân bào (spindle structures) cùng với sự phân tán bất thường của nhiễm sắc thể nữ có thể là nguyên nhân gây ra tình trạng dừng trưởng thành ở giai đoạn MI tái phát. Noãn MI có cấu trúc thoi phân bào bất thường nghiêm trọng có cơ hội rất thấp để tiến triển qua giảm phân bình thường, thụ tinh và phát triển phôi tiếp theo. Nguyên nhân của việc tất cả noãn đều dừng ở giai đoạn MI tái phát vẫn chưa rõ. Có thể có các yếu tố in vivo chưa được xác định ảnh hưởng đến sự trưởng thành của noãn, dẫn đến khả năng phát triển thấp. Hiện tại, một số gen (PATL2, TUBB8, TRIP13, CDC20, TBPL2) đã được báo cáo là nguyên nhân gây dừng trưởng thành noãn. Mặc dù nghiên cứu này không phân tích gen gây dừng trưởng thành noãn, bệnh nhân được phân tích nhiễm sắc thể đều cho thấy bộ nhiễm sắc thể nữ bình thường (46, XX). Các tác giả suy đoán rằng có lẽ có hai nền tảng di truyền khác nhau ảnh hưởng đến sự dừng ở giai đoạn MI, dẫn đến hai loại noãn MI dừng trưởng thành dựa trên đặc điểm ZP. Nghiên cứu cũng đề cập rằng ở nhóm ZP lõm, do khoang quanh noãn hẹp và ZP bất thường, việc phân biệt thể cực (polar body) thường khó khăn. Điều này có thể khiến tỷ lệ noãn MII thực sự không được kết luận chính xác. Sousa và cs. (2015), đã báo cáo một trường hợp bệnh nhân có tất cả noãn MI với ZP lõm trong hai chu kỳ đầu, nhưng các chu kỳ tiếp theo lại có noãn MII. Điều này có thể do sự khác biệt trong phác đồ kích thích buồng trứng có kiểm soát. Việc không có sự kháng cự khi đâm xuyên màng bào tương (oolemma penetration) trong quá trình vi tiêm và độ nhớt bào tương thấp khi hút ở cả hai nhóm noãn MI đều được ghi nhận. Tuy nhiên, sự khác biệt then chốt là noãn MI trong nhóm ZP trơn không thể được thụ tinh, trong khi noãn MI với ZP lõm có thể được thụ tinh bình thường và phát triển thành phôi nang.
Nghiên cứu kết luận rằng việc phân biệt hai loại noãn dừng ở giai đoạn MI dựa trên đặc điểm ZP của chúng là hữu ích để dự đoán kết quả của các chu kỳ ART lặp lại. Đối với những phụ nữ có noãn MI tái phát với ZP trơn, tiên lượng rất kém (không thụ tinh), và việc sử dụng noãn hiến tặng hiện là lựa chọn duy nhất. Ngược lại, noãn MI với ZP lõm lại có tiềm năng phát triển thành phôi và có thể dẫn đến kết quả mang thai.
Nghiên cứu này là một nghiên cứu hồi cứu dạng báo cáo ca lâm sàng với số lượng bệnh nhân nhỏ. Việc phân tích gen gây dừng trưởng thành noãn chưa được thực hiện, đây là một hạn chế.
Nghiên cứu đề xuất rằng việc quan sát thoi phân bào và chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGD/PGT) trên phôi tạo ra từ noãn MI có thể được điều tra thêm trong tương lai. Cần thêm nghiên cứu để làm rõ nguyên nhân của tình trạng dừng giảm phân này, đặc biệt là với noãn MI có ZP trơn.
Nghiên cứu khẳng định giá trị tiên lượng của việc phân loại noãn dừng trưởng thành MI tái diễn dựa trên đặc điểm cấu trúc màng trong suốt (ZP). Trong đó:
Kết luận
Kết quả nghiên cứu mở ra hướng tiếp cận cá thể hóa trong điều trị vô sinh do rối loạn trưởng thành noãn, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của đánh giá hình thái ZP như một chỉ dấu sinh học tiên lượng kết quả ART.
Nguồn: Jiang Y, Yuan JC, Song G, Wu XH. Compare Two Kinds of Recurrent MI-Arrest Oocytes. J Obstet Gynaecol India. 2023 Aug;73(4):363-367. doi: 10.1007/s13224-023-01817-0. Epub 2023 Aug 24. PMID: 37701083; PMCID: PMC10492726.
Giới thiệu
Trong những thập kỷ qua, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã trở nên phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Mục đích chính của kích thích buồng trứng trong thụ tinh trong ống nghiệm là thu thập được nhiều noãn trưởng thành ở giai đoạn kỳ giữa II (Metaphase II - MII), vì đây là giai đoạn noãn có khả năng thụ tinh khi kết hợp với tinh trùng hoặc sau khi tiêm tinh trùng vào bào tương noãn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc thu nhận noãn non ở giai đoạn MI và GV sau khi kích thích buồng trứng có kiểm soát là điều khá phổ biến trong IVF. Các noãn MI non được mô tả là có màng trong suốt (Zona pellucida – ZP) cấu trúc dày đặc với các tế bào cumulus trơn hoặc phồng dạng bóng. Màng ZP có hai lớp: lớp ngoài xốp thô và lớp trong có các lỗ nhỏ hơn với mạng lưới sợi mảnh
Các trường hợp được báo cáo trước đây về noãn dừng trưởng thành ở giai đoạn MI cho thấy khả năng kháng trưởng thành sau nuôi trưởng thành in vitro (IVM) và không thụ tinh sau ICSI. Cấu trúc màng ZP của các noãn dừng trưởng thành giai đoạn MI được ghi nhận có cấu trúc khoang quanh noãn hẹp và có sự xuất hiện của sợi collagen xơ hóa. Một số nghiên cứu khác ghi nhận màng ZP lõm cùng với khoang quanh noãn hẹp và có tỷ lệ trưởng thành noãn thấp đáng kể. Mục tiêu nghiên cứu là so sánh hai kiểu noãn MI ngừng trưởng thành đặc trưng bởi khoang quanh noãn hẹp theo đặc điểm màng ZP, đồng thời đánh giá khả năng thụ tinh và tiềm năng phát triển của phôi của tất cả noãn MI sau ICSI.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ 03/2017–05/2020, bao gồm 3 bệnh nhân (5 chu kỳ) thu nhận toàn bộ noãn ở giai đoạn MI. Nhóm được phân loại dựa trên đặc điểm màng trong suốt (ZP):
- Nhóm ZP trơn: 1 bệnh nhân (2 chu kỳ) với ZP bề mặt trơn (Hình 1).
- Nhóm ZP lõm: 2 bệnh nhân (3 chu kỳ) với ZP biến dạng lõm (Hình 2).
.png)
ICSI hoặc Re-ICSI: Áp dụng khi số tinh trùng di động <5 triệu hoặc tiền sử thất bại thụ tinh. Tinh trùng được chuẩn bị bằng ly tâm thang nồng độ.
Kết quả
-
Nhóm ZP trơn (Smooth ZP):
- 0% tỷ lệ thụ tinh (0/19 noãn) sau ICSI hoặc Re-ICSI.
- Không phôi chất lượng cao hoặc phôi nang được hình thành.
-
Nhóm ZP lõm (Indented ZP):
- Tỷ lệ thụ tinh 46,7% (14/30 noãn) (P = 0,002 so với nhóm ZP trơn), trong đó 30% có 2 tiền nhân (2PN) (P = 0,007 so với nhóm ZP trơn).
- 88,9% (8/9) phôi phân chia từ 2PN (P = 0,001 so với nhóm ZP trơn), 25% (2/8) phôi nang đạt tiêu chuẩn chuyển phôi.
- 1 trường hợp mang thai sau chuyển phôi kết hợp hỗ trợ phôi thoát màng (laser-assisted hatching - AH).
Tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ 2PN (hai tiền nhân, dấu hiệu thụ tinh bình thường), và tỷ lệ phân chia của nhóm ZP trơn đều thấp hơn đáng kể so với nhóm ZP lõm (P < 0,05). Điều này tương tự với các báo cáo trước đây về noãn ngừng trưởng thành giai đoạn MI. Ngược lại, các noãn MI có ZP bị lõm có thể được thụ tinh một cách bình thường và phát triển thành phôi nang sau ICSI hoặc Re-ICSI. Nghiên cứu thảo luận về các nguyên nhân có thể dẫn đến sự khác biệt này. Màng ngoài (ZP) của noãn MI đề kháng trưởng thành đã được báo cáo là chưa trưởng thành, hẹp và có cấu trúc sợi. Sự bất thường trong cấu trúc thoi phân bào (spindle structures) cùng với sự phân tán bất thường của nhiễm sắc thể nữ có thể là nguyên nhân gây ra tình trạng dừng trưởng thành ở giai đoạn MI tái phát. Noãn MI có cấu trúc thoi phân bào bất thường nghiêm trọng có cơ hội rất thấp để tiến triển qua giảm phân bình thường, thụ tinh và phát triển phôi tiếp theo. Nguyên nhân của việc tất cả noãn đều dừng ở giai đoạn MI tái phát vẫn chưa rõ. Có thể có các yếu tố in vivo chưa được xác định ảnh hưởng đến sự trưởng thành của noãn, dẫn đến khả năng phát triển thấp. Hiện tại, một số gen (PATL2, TUBB8, TRIP13, CDC20, TBPL2) đã được báo cáo là nguyên nhân gây dừng trưởng thành noãn. Mặc dù nghiên cứu này không phân tích gen gây dừng trưởng thành noãn, bệnh nhân được phân tích nhiễm sắc thể đều cho thấy bộ nhiễm sắc thể nữ bình thường (46, XX). Các tác giả suy đoán rằng có lẽ có hai nền tảng di truyền khác nhau ảnh hưởng đến sự dừng ở giai đoạn MI, dẫn đến hai loại noãn MI dừng trưởng thành dựa trên đặc điểm ZP. Nghiên cứu cũng đề cập rằng ở nhóm ZP lõm, do khoang quanh noãn hẹp và ZP bất thường, việc phân biệt thể cực (polar body) thường khó khăn. Điều này có thể khiến tỷ lệ noãn MII thực sự không được kết luận chính xác. Sousa và cs. (2015), đã báo cáo một trường hợp bệnh nhân có tất cả noãn MI với ZP lõm trong hai chu kỳ đầu, nhưng các chu kỳ tiếp theo lại có noãn MII. Điều này có thể do sự khác biệt trong phác đồ kích thích buồng trứng có kiểm soát. Việc không có sự kháng cự khi đâm xuyên màng bào tương (oolemma penetration) trong quá trình vi tiêm và độ nhớt bào tương thấp khi hút ở cả hai nhóm noãn MI đều được ghi nhận. Tuy nhiên, sự khác biệt then chốt là noãn MI trong nhóm ZP trơn không thể được thụ tinh, trong khi noãn MI với ZP lõm có thể được thụ tinh bình thường và phát triển thành phôi nang.
Nghiên cứu kết luận rằng việc phân biệt hai loại noãn dừng ở giai đoạn MI dựa trên đặc điểm ZP của chúng là hữu ích để dự đoán kết quả của các chu kỳ ART lặp lại. Đối với những phụ nữ có noãn MI tái phát với ZP trơn, tiên lượng rất kém (không thụ tinh), và việc sử dụng noãn hiến tặng hiện là lựa chọn duy nhất. Ngược lại, noãn MI với ZP lõm lại có tiềm năng phát triển thành phôi và có thể dẫn đến kết quả mang thai.
Nghiên cứu này là một nghiên cứu hồi cứu dạng báo cáo ca lâm sàng với số lượng bệnh nhân nhỏ. Việc phân tích gen gây dừng trưởng thành noãn chưa được thực hiện, đây là một hạn chế.
Nghiên cứu đề xuất rằng việc quan sát thoi phân bào và chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGD/PGT) trên phôi tạo ra từ noãn MI có thể được điều tra thêm trong tương lai. Cần thêm nghiên cứu để làm rõ nguyên nhân của tình trạng dừng giảm phân này, đặc biệt là với noãn MI có ZP trơn.
Nghiên cứu khẳng định giá trị tiên lượng của việc phân loại noãn dừng trưởng thành MI tái diễn dựa trên đặc điểm cấu trúc màng trong suốt (ZP). Trong đó:
- Nhóm ZP trơn cho thấy khả năng thụ tinh bằng 0% dù áp dụng ICSI kết hợp hoạt hóa noãn hỗ trợ (assisted oocyte activation -AOA), nguyên nhân liên quan đến bất thường cấu trúc thoi phân bào MI và suy giảm tiềm năng hoàn tất giảm phân.
- Giải pháp duy nhất hiện nay cho nhóm này là sử dụng noãn hiến tặng, do không thể khắc phục tình trạng ngừng trưởng thành bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thông thường.
Kết luận
Kết quả nghiên cứu mở ra hướng tiếp cận cá thể hóa trong điều trị vô sinh do rối loạn trưởng thành noãn, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của đánh giá hình thái ZP như một chỉ dấu sinh học tiên lượng kết quả ART.
Nguồn: Jiang Y, Yuan JC, Song G, Wu XH. Compare Two Kinds of Recurrent MI-Arrest Oocytes. J Obstet Gynaecol India. 2023 Aug;73(4):363-367. doi: 10.1007/s13224-023-01817-0. Epub 2023 Aug 24. PMID: 37701083; PMCID: PMC10492726.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK