Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Sunday 01-06-2025 9:32pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh

Tổng quan
Mặc dù tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic Sperm Injection – ICSI) là một kỹ thuật hiệu quả trong điều trị vô sinh nam, song vẫn có những khó khăn trong quá trình thụ tinh, đặc biệt khi sử dụng tinh trùng bất động hoặc tinh trùng thủ thuật như chọc hút tinh trùng từ tinh hoàn (Testicular Sperm Aspiration – TESA) hoặc phẫu thuật ly trích tinh trùng từ tinh hoàn (Testicular sperm extraction – TESE). Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng sự thất bại trong quá trình hoạt hóa noãn có thể là nguyên nhân dẫn đến thất bại thụ tinh. Nhiều phương pháp đã được đề xuất để khắc phục tình trạng thất bại hoạt hóa noãn bao gồm cơ học, điện học và hóa học. Hiện nay, phương pháp phổ biến nhất là hoạt hóa noãn nhân tạo (Artificial oocyte activation – AOA) bằng calcium ionophore, mô phỏng lại quá trình hoạt hóa sinh lý tự nhiên. Các nghiên cứu gần đây cho thấy hiệu quả của AOA trong các trường hợp thất bại thụ tinh không rõ nguyên nhân, đặc biệt ở những bệnh nhân thiếu hụt protein PLCζ – củng cố vai trò tiềm năng của AOA cho từng nhóm bệnh nhân vô sinh cụ thể. Tuy nhiên, hiệu quả của AOA trong việc cải thiện tỉ lệ thụ tinh và kết quả ICSI khi sử dụng tinh trùng từ TESA/TESE vẫn còn tranh cãi. Ngoài ra, còn thiếu dữ liệu về ảnh hưởng của AOA đối với các chỉ số động học hình thái phôi.
 
Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào các trường hợp vô sinh nam nhẹ và sử dụng tinh trùng xuất tinh. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá ảnh hưởng của AOA lên các thông số phát triển phôi và kết quả lâm sàng trong các chu kỳ ICSI sử dụng tinh trùng thủ thuật.
 
Vật liệu và phương pháp
Đây là nghiên cứu hồi cứu với nhóm bệnh nhân trải qua chu kỳ ICSI với tinh trùng TESE được thực hiện từ tháng 1/2020 đến tháng 5/2022 tại trung tâm IVF ở  Israel. Để đảm bảo tính đối chứng chặt chẽ, nhóm tác giả sử dụng mô hình chia noãn (sibling oocyte) trong cùng một chu kỳ điều trị nhằm so sánh hiệu quả của AOA với nhóm đối chứng không sử dụng AOA.
 
Kết quả
Nghiên cứu bao gồm 57 bệnh nhân trải qua 73 chu kỳ TESE-ICSI. Tổng cộng 877 noãn được thu nhận, trong đó có 346 noãn không thực hiện AOA và 301 noãn AOA. Tỉ lệ thụ tinh 2PN lần lượt là 52,3% và 53,2% với P=0,830. Ở nhóm AOA, tỉ lệ phôi chất lượng cao (Top-quality embryo – TQE) cao hơn so với nhóm không AOA (64,4% so với 54,7%), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P=0,067). Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về tỉ lệ thụ tinh bất thường và tỉ lệ thoái hóa noãn sau ICSI. Phân tích động học hình thái phôi cho thấy các thông số đều tương đồng giữa hai nhóm. Tuy nhiên, thời điểm phân chia thành 7 tế bào (t7) ở nhóm AOA phân chia chậm hơn so với nhóm không AOA (36,56 giờ so với 32,08 giờ; P=0,013).
 
So sánh kết quả lâm sàng giữa 22 ca chuyển phôi tươi ở nhóm không AOA và 17 ca ở nhóm AOA cho thấy nhóm AOA có tỉ lệ trẻ sinh sống và tỉ lệ làm tổ cao hơn so với nhóm không AOA (29,4% so với 13,6% và 38,2% so với 17,4%), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (lần lượt P=0,234 và P=0,08). Tương tự, kết quả lâm sàng giữa 35 ca chuyển phôi trữ ở nhóm không AOA và 34 ca ở nhóm AOA lần lượt là 22,9% so với 17,6%; P=0,589 và 23,1% so với 17,6%; P=0,563. Nhìn chung, không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy giữa nhóm không AOA và nhóm AOA (21,6% so với 19,3%; P=0,77).
 
Phân tích sâu hơn theo loại tinh trùng, kết quả cho thấy AOA giúp tăng tỉ lệ TQE khi sử dụng tinh trùng tươi (65,9% so với 49,4%; P=0,026). Đối với tinh trùng trữ, AOA không mang lại sự khác biệt rõ rệt (62,7% so với 59,8%, P=0,70). Ngoài ra, AOA có hiệu quả khi sử dụng tinh trùng không tiến tới hoặc bất động, với tỉ lệ TQE cao hơn có ý nghĩa thống kê (72,7% so với 51,1%; P=0,031). AOA cũng cho thấy xu hướng cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng (42,9% so với 16,7%; P=0,12) và tỉ lệ trẻ sinh sống (42,9% so với 16,7%; P=0,12) trong nhóm này. Ngược lại, khi sử dụng tinh trùng di động tiến tới, AOA không cải thiện rõ rệt chất lượng phôi.
Không có sự khác biệt về tuổi thai trung bình, kết quả sơ sinh, cân nặng sơ sinh giữa 2 nhóm. Về biến chứng sản khoa, chỉ có một trường hợp duy nhất được ghi nhận trong nhóm không sử dụng AOA – đó là một ca hở eo tử cung. Trong khi đó, nhóm có AOA không ghi nhận bất kỳ biến chứng sản khoa. Xét về biến chứng sơ sinh, nhóm không AOA có hai trường hợp bất thường: một trường hợp khuyết tật vách ngăn thất (Ventricular septal defect – VSD) và một trường hợp thận chậu (Pelvic kidney). Không có biến chứng sơ sinh nào được ghi nhận trong nhóm AOA.

Bàn luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy AOA có ảnh hưởng tích cực kết quả ICSI trong chu kỳ ICSI-TESE, đặc biệt khi sử dụng tinh trùng tươi và tinh trùng không tiến tới hoặc bất động. Các kết quả cho thấy rằng AOA không ảnh hưởng tiêu cực đến động học hình thái phôi. Bên cạnh đó, nhóm tác giả ghi nhận AOA giúp tăng tỉ lệ TQE, đồng thời cho thấy xu hướng cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu trong tương lai để đánh giá kết quả lâm sàng dài hạn và cơ chế tác động chính xác của AOA trong cải thiện sự phát triển phôi. Bên cạnh đó, những ảnh hưởng lâu dài tiềm tàng đến sức khỏe con sinh ra từ kỹ thuật AOA cũng nên được thảo luận kỹ càng với bệnh nhân như một phần của quy trình tư vấn và đồng thuận điều trị, do hiện tại vẫn còn thiếu dữ liệu dài hạn.
 
Điểm mạnh của nghiên cứu là sử dụng mô hình chia noãn giúp kiểm soát được nhiều yếu tố gây nhiễu như: phác đồ kích thích buồng trứng, tuổi bệnh nhân, cách kích rụng trứng và loại gonadotropin sử dụng. Tuy nhiên, nghiên cứu có một số hạn chế. Đây là thiết kế hồi cứu, cỡ mẫu nhỏ, và chủ yếu chuyển phôi ở ngày 3, do đó không thể đánh giá toàn diện sự phát triển đến giai đoạn phôi nang.
 
Nguồn: Aizer A, Noach-Hirsh M, Shimon C, et al. Impact of artificial oocyte activation with calcium ionophore on ICSI outcomes using surgically retrieved spermatozoa: A comprehensive analysis. Andrology. Published online April 25, 2025. doi:10.1111/andr.70047.
 



Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK