Tin tức
on Sunday 01-06-2025 10:22pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN Lê Ngọc Quế Anh – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Hiện nay việc chọn phôi tốt nhất để chuyển là một thách thức hằng ngày tại các trung tâm hỗ trợ sinh sản. Hệ thống đánh giá hình thái vẫn đang được sử dụng thường quy để lựa chọn phôi ở giai đoạn phôi nang. Mặc dù đã có nhiều cải tiến trong đánh giá này, việc chuyển phôi có đặc điểm hình thái tối ưu vẫn có thể dấn đến thất bại làm tổ. Xu hướng chuyển đơn phôi càng làm cho việc cải thiện phương pháp chọn phôi trở nên quan trọng hơn. Do đó, nhiều nổ lực nghiên cứu vẫn tập trung vào các đánh giá tiếp cận mới để cải thiện việc lựa chọn phôi. Một trong những cách tiếp cận để cải thiện việc chọn phôi là nuôi cấy phôi kéo dài đến ngày 5 hoặc ngày 6 sau thụ tinh và chọn những phôi có khả năng đạt đến giai đoạn phôi nang. Sau giai đoạn phân chia, phôi trải qua quá trình nén và sau đó hình thành phôi nang với 2 dòng tế bào là khối tế bào nội mô (inner cell mass -ICM) và tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE). Số lượng tế bào TE đủ cần thiết cho sự mở rộng khoang phôi vì các tế bào TE tích lũy ion trong khoang phôi tạo gradient thẩm thấu thúc đẩy dòng chất lỏng vào khoang phôi qua các tế bào, từ đó thúc đẩy sự mở rộng khoang phôi. Các thử nghiệm lâm sàng hiện nay đã chứng minh chuyển phôi nang mang lại tỷ lệ làm tổ và sinh sống cao hơn so với phôi giai đoạn phân chia. Việc nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang như một “bộ lọc” để lựa chọn những phôi có tiềm năng phát triển cao nhất. Mặc dù các thông số hình thái động học dựa trên nuôi cấy phôi bằng hệ thống camera giám sát liên tục time-lapsed đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, hệ thống phân loại hình thái vẫn được sử dụng thường quy để lựa chọn phôi ở giai đoạn phôi nang. Độ mở rộng khoang phôi được đánh giá trong quá trình đánh giá hình thái có liên quan đến tỷ lệ thai lâm sàng. Việc đánh giá này được thực hiện tại một thời điểm cụ thể mà không xét đến động học mở rộng khoang phôi. Nghiên cứu tập trung vào việc nghiên cứu động học của sự giãn nở khoang phôi bằng cách so sánh các phép đo bề mặt khoang phôi theo thời gian. Nghiên cứu có hai mục tiêu bao gồm đánh giá động học này có bị ảnh hưởng bơi phương pháp thụ tinh hay không và mối liên hệ giữa các phép đo đối với tỷ lệ thai diễn tiến.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu 225 chu kỳ điều trị IVF từ 07/2019 đến 01/2021, bao gồm:
Phôi được nuôi trong tủ time-lapsed EmbryoScope với môi trường SAGE 1-step (07–12/2019) hoặc Vitrolife G-TL (12/2019–01/2021). Nhiệt độ 36,8°C, khí 7% O₂ và 5–6% CO₂. Phôi được đánh giá sau 112–116 giờ thụ tinh.
Các ảnh được chụp mỗi 10 phút với 7 mặt phẳng tiêu cự. Thời điểm hình thành phôi nang hoàn chỉnh (tB) là khung hình cuối cùng trước khi màng zona pellucida mỏng. Diện tích khoang phôi được đo bằng phần mềm EmbryoViewer (đơn vị µm²), từ thời điểm tB đến lúc đạt diện tích lớn nhất.
Tốc độ mở rộng tính theo công thức:
(Diện tích lớn nhất – Diện tích tại tB) / (Số giờ từ tB đến khi đạt diện tích lớn nhất)
Kết quả
Tổng cộng 766 phôi (289 IVF, 218 ICSI, 259 TESE-ICSI) đạt đến giai đoạn phôi nang hoàn chỉnh (tB).
Thảo luận
Các tác giả thảo luận về nguyên nhân tiềm ẩn cho sự liên quan giữa động học khoang phôi nang và kết quả thai diễn tiến. Một khả năng là do nguyên nhân di truyền: một nghiên cứu trước đây cho thấy phôi nang nguyên bội (euploid) mở rộng nhanh hơn đáng kể so với phôi nang lệch bội (aneuploid). Phôi nang phát triển chậm hơn cũng có xu hướng có nhiều thoi phân bào bất thường hơn, có thể dẫn đến ngừng phân bào và giảm số lượng tế bào. Tế bào lệch bội có thể có khuyết tật tăng sinh ở TE. Do đó, lệch bội có thể dẫn đến ít tế bào TE hơn, ảnh hưởng tiêu cực đến sự mở rộng của phôi nang vào ngày 5. Điều này phù hợp với mối tương quan dương giữa tốc độ mở rộng và số lượng tế bào TE được mô tả trong các nghiên cứu khác. Ngoài ra, ICM cũng đóng vai trò quan trọng trong sự tăng sinh của TE vì ICM sản xuất yếu tố tín hiệu FGF4 điều chỉnh sự phát triển của TE. Nghiên cứu sử dụng mô hình "blastoid" từ tế bào gốc cũng cho thấy ICM điều chỉnh đường kính khoang phôi nang bằng cách sản xuất các yếu tố tín hiệu cụ thể. Do đó, sự mở rộng khoang phôi nang cũng có thể phản ánh sự phát triển của ICM.
Về sự khác biệt giữa các phương pháp thụ tinh, kết quả khoang phôi nang nhỏ hơn ở phôi ICSI và TESE-ICSI phù hợp với các quan sát trước đây về đường kính phôi nang ICSI đông lạnh-rã đông nhỏ hơn và tỷ lệ thoát màng hoàn toàn thấp hơn. Các tác giả đưa ra giả thuyết rằng sự khác biệt về tốc độ mở rộng có thể có nguyên nhân cơ học: việc đưa kim tiêm vào qua màng trong suốt (zona pellucida - ZP) trong quá trình ICSI tạo ra một lỗ nhỏ, có thể hạn chế kích thước mở rộng tối đa của phôi nang ICSI và TESE-ICSI. Đối với việc tốc độ mở rộng của phôi TESE-ICSI nhanh hơn phôi ICSI tinh trùng xuất tinh giả thuyết đưa ra rằng điều này có thể liên quan đến chất lượng noãn. Tỷ lệ thụ tinh thấp hơn ở nhóm TESE-ICSI có thể dẫn đến việc chỉ những noãn chất lượng tốt mới được thụ tinh thành công bằng tinh trùng từ tinh hoàn và chất lượng noãn có thể tiếp tục ảnh hưởng đến động lực phát triển sau giai đoạn phôi dâu.
Một hạn chế trong thực hành hàng ngày là việc đo lường thủ công các thông số này tốn thời gian. Bên cạnh đó, nghiên cứu không tính đến các trường hợp khoang phôi nang bị xẹp (collapse), điều này được biết là có ảnh hưởng tiềm năng đến khả năng làm tổ. Nghiên cứu trong tương lai có thể kết hợp số lượng và mức độ xẹp của khoang phôi nang để tinh chỉnh mô hình. Ngoài ra, đây là một nghiên cứu hồi cứu, quan sát. Nghiên cứu có thể chịu ảnh hưởng của sai lệch chọn lọc vì chỉ những phôi được chọn chuyển tươi mới có kết quả thai kỳ được biết rõ ràng, những phôi này vốn đã được chọn là "tốt nhất" dựa trên các tiêu chí hình thái (trong đó mức độ mở rộng phôi nang là một tiêu chí quan trọng)
Kết luận
Phôi từ ICSI và TESE-ICSI nhìn chung có khoang phôi nang nhỏ hơn so với IVF. Tuy nhiên, bất kể phương pháp thụ tinh, phôi dẫn đến thai diễn tiến có khoang phôi lớn hơn và mở rộng nhanh hơn so với phôi không thành công.
Do đó, đo đạc bề mặt và tốc độ mở rộng khoang phôi nang là các dấu ấn định lượng không xâm lấn có tiềm năng giúp cải thiện chọn lựa phôi để chuyển hoặc đông lạnh.
Nghiên cứu tương lai nên tập trung vào tự động hóa đo lường và kết hợp các yếu tố như hiện tượng xẹp khoang phôi để nâng cao độ chính xác của mô hình dự đoán.
Nguồn: van Marion ES, Chavli EA, Laven JSE, Steegers-Theunissen RPM, Koster MPH, Baart EB. Longitudinal surface measurements of human blastocysts show that the dynamics of blastocoel expansion are associated with fertilization method and ongoing pregnancy. Reprod Biol Endocrinol. 2022 Mar 19;20(1):53. doi: 10.1186/s12958-022-00917-2. PMID: 35305653; PMCID: PMC8933899.
Giới thiệu
Hiện nay việc chọn phôi tốt nhất để chuyển là một thách thức hằng ngày tại các trung tâm hỗ trợ sinh sản. Hệ thống đánh giá hình thái vẫn đang được sử dụng thường quy để lựa chọn phôi ở giai đoạn phôi nang. Mặc dù đã có nhiều cải tiến trong đánh giá này, việc chuyển phôi có đặc điểm hình thái tối ưu vẫn có thể dấn đến thất bại làm tổ. Xu hướng chuyển đơn phôi càng làm cho việc cải thiện phương pháp chọn phôi trở nên quan trọng hơn. Do đó, nhiều nổ lực nghiên cứu vẫn tập trung vào các đánh giá tiếp cận mới để cải thiện việc lựa chọn phôi. Một trong những cách tiếp cận để cải thiện việc chọn phôi là nuôi cấy phôi kéo dài đến ngày 5 hoặc ngày 6 sau thụ tinh và chọn những phôi có khả năng đạt đến giai đoạn phôi nang. Sau giai đoạn phân chia, phôi trải qua quá trình nén và sau đó hình thành phôi nang với 2 dòng tế bào là khối tế bào nội mô (inner cell mass -ICM) và tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE). Số lượng tế bào TE đủ cần thiết cho sự mở rộng khoang phôi vì các tế bào TE tích lũy ion trong khoang phôi tạo gradient thẩm thấu thúc đẩy dòng chất lỏng vào khoang phôi qua các tế bào, từ đó thúc đẩy sự mở rộng khoang phôi. Các thử nghiệm lâm sàng hiện nay đã chứng minh chuyển phôi nang mang lại tỷ lệ làm tổ và sinh sống cao hơn so với phôi giai đoạn phân chia. Việc nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang như một “bộ lọc” để lựa chọn những phôi có tiềm năng phát triển cao nhất. Mặc dù các thông số hình thái động học dựa trên nuôi cấy phôi bằng hệ thống camera giám sát liên tục time-lapsed đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, hệ thống phân loại hình thái vẫn được sử dụng thường quy để lựa chọn phôi ở giai đoạn phôi nang. Độ mở rộng khoang phôi được đánh giá trong quá trình đánh giá hình thái có liên quan đến tỷ lệ thai lâm sàng. Việc đánh giá này được thực hiện tại một thời điểm cụ thể mà không xét đến động học mở rộng khoang phôi. Nghiên cứu tập trung vào việc nghiên cứu động học của sự giãn nở khoang phôi bằng cách so sánh các phép đo bề mặt khoang phôi theo thời gian. Nghiên cứu có hai mục tiêu bao gồm đánh giá động học này có bị ảnh hưởng bơi phương pháp thụ tinh hay không và mối liên hệ giữa các phép đo đối với tỷ lệ thai diễn tiến.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu 225 chu kỳ điều trị IVF từ 07/2019 đến 01/2021, bao gồm:
- 76 chu kỳ IVF cổ điển
- 67 chu kỳ ICSI sử dụng tinh trùng xuất tinh
- 82 chu kỳ TESE-ICSI sử dụng tinh trùng từ mào tinh hoàn/tinh hoàn
Phôi được nuôi trong tủ time-lapsed EmbryoScope với môi trường SAGE 1-step (07–12/2019) hoặc Vitrolife G-TL (12/2019–01/2021). Nhiệt độ 36,8°C, khí 7% O₂ và 5–6% CO₂. Phôi được đánh giá sau 112–116 giờ thụ tinh.
Các ảnh được chụp mỗi 10 phút với 7 mặt phẳng tiêu cự. Thời điểm hình thành phôi nang hoàn chỉnh (tB) là khung hình cuối cùng trước khi màng zona pellucida mỏng. Diện tích khoang phôi được đo bằng phần mềm EmbryoViewer (đơn vị µm²), từ thời điểm tB đến lúc đạt diện tích lớn nhất.
Tốc độ mở rộng tính theo công thức:
(Diện tích lớn nhất – Diện tích tại tB) / (Số giờ từ tB đến khi đạt diện tích lớn nhất)
Kết quả
Tổng cộng 766 phôi (289 IVF, 218 ICSI, 259 TESE-ICSI) đạt đến giai đoạn phôi nang hoàn chỉnh (tB).
- Có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê về tỷ lệ thụ tinh giữa ba phương pháp này (giá trị p < 0,001)
- Tuy nhiên, tỷ lệ thai sinh hóa và thai diễn tiến không khác biệt đáng kể giữa ba nhóm (p = 0,057 và p = 0,767).
- Phôi ICSI (tinh trùng xuất tinh) có diện tích khoang phôi nhỏ hơn đáng kể so với IVF (trung bình thấp hơn 1121,6 µm²; p < 0,001).
- Phôi TESE-ICSI cũng nhỏ hơn so với IVF (trung bình thấp hơn 646,8 µm²; p = 0,007).
- Tốc độ mở rộng phôi ICSI chậm hơn IVF (trung bình thấp hơn 93,2 µm²/giờ; p = 0,012).
- Phôi TESE-ICSI không khác biệt đáng kể về tốc độ mở rộng so với IVF (p = 0,218).
- Thời điểm tB của phôi ICSI và TESE-ICSI đều sớm hơn IVF (lần lượt sớm hơn 2,0 giờ và 1,6 giờ).
- Phôi dẫn đến thai diễn tiến có khoang phôi nang lớn hơn đáng kể (trung bình lớn hơn 795,4 µm²; p = 0,046)
- Tốc độ mở rộng nhanh hơn đáng kể (trung bình nhanh hơn 100,9 µm²/giờ; p = 0,038).
- Sự khác biệt rõ rệt từ khoảng 6 giờ sau tB.
Thảo luận
Các tác giả thảo luận về nguyên nhân tiềm ẩn cho sự liên quan giữa động học khoang phôi nang và kết quả thai diễn tiến. Một khả năng là do nguyên nhân di truyền: một nghiên cứu trước đây cho thấy phôi nang nguyên bội (euploid) mở rộng nhanh hơn đáng kể so với phôi nang lệch bội (aneuploid). Phôi nang phát triển chậm hơn cũng có xu hướng có nhiều thoi phân bào bất thường hơn, có thể dẫn đến ngừng phân bào và giảm số lượng tế bào. Tế bào lệch bội có thể có khuyết tật tăng sinh ở TE. Do đó, lệch bội có thể dẫn đến ít tế bào TE hơn, ảnh hưởng tiêu cực đến sự mở rộng của phôi nang vào ngày 5. Điều này phù hợp với mối tương quan dương giữa tốc độ mở rộng và số lượng tế bào TE được mô tả trong các nghiên cứu khác. Ngoài ra, ICM cũng đóng vai trò quan trọng trong sự tăng sinh của TE vì ICM sản xuất yếu tố tín hiệu FGF4 điều chỉnh sự phát triển của TE. Nghiên cứu sử dụng mô hình "blastoid" từ tế bào gốc cũng cho thấy ICM điều chỉnh đường kính khoang phôi nang bằng cách sản xuất các yếu tố tín hiệu cụ thể. Do đó, sự mở rộng khoang phôi nang cũng có thể phản ánh sự phát triển của ICM.
Về sự khác biệt giữa các phương pháp thụ tinh, kết quả khoang phôi nang nhỏ hơn ở phôi ICSI và TESE-ICSI phù hợp với các quan sát trước đây về đường kính phôi nang ICSI đông lạnh-rã đông nhỏ hơn và tỷ lệ thoát màng hoàn toàn thấp hơn. Các tác giả đưa ra giả thuyết rằng sự khác biệt về tốc độ mở rộng có thể có nguyên nhân cơ học: việc đưa kim tiêm vào qua màng trong suốt (zona pellucida - ZP) trong quá trình ICSI tạo ra một lỗ nhỏ, có thể hạn chế kích thước mở rộng tối đa của phôi nang ICSI và TESE-ICSI. Đối với việc tốc độ mở rộng của phôi TESE-ICSI nhanh hơn phôi ICSI tinh trùng xuất tinh giả thuyết đưa ra rằng điều này có thể liên quan đến chất lượng noãn. Tỷ lệ thụ tinh thấp hơn ở nhóm TESE-ICSI có thể dẫn đến việc chỉ những noãn chất lượng tốt mới được thụ tinh thành công bằng tinh trùng từ tinh hoàn và chất lượng noãn có thể tiếp tục ảnh hưởng đến động lực phát triển sau giai đoạn phôi dâu.
Một hạn chế trong thực hành hàng ngày là việc đo lường thủ công các thông số này tốn thời gian. Bên cạnh đó, nghiên cứu không tính đến các trường hợp khoang phôi nang bị xẹp (collapse), điều này được biết là có ảnh hưởng tiềm năng đến khả năng làm tổ. Nghiên cứu trong tương lai có thể kết hợp số lượng và mức độ xẹp của khoang phôi nang để tinh chỉnh mô hình. Ngoài ra, đây là một nghiên cứu hồi cứu, quan sát. Nghiên cứu có thể chịu ảnh hưởng của sai lệch chọn lọc vì chỉ những phôi được chọn chuyển tươi mới có kết quả thai kỳ được biết rõ ràng, những phôi này vốn đã được chọn là "tốt nhất" dựa trên các tiêu chí hình thái (trong đó mức độ mở rộng phôi nang là một tiêu chí quan trọng)
Kết luận
Phôi từ ICSI và TESE-ICSI nhìn chung có khoang phôi nang nhỏ hơn so với IVF. Tuy nhiên, bất kể phương pháp thụ tinh, phôi dẫn đến thai diễn tiến có khoang phôi lớn hơn và mở rộng nhanh hơn so với phôi không thành công.
Do đó, đo đạc bề mặt và tốc độ mở rộng khoang phôi nang là các dấu ấn định lượng không xâm lấn có tiềm năng giúp cải thiện chọn lựa phôi để chuyển hoặc đông lạnh.
Nghiên cứu tương lai nên tập trung vào tự động hóa đo lường và kết hợp các yếu tố như hiện tượng xẹp khoang phôi để nâng cao độ chính xác của mô hình dự đoán.
Nguồn: van Marion ES, Chavli EA, Laven JSE, Steegers-Theunissen RPM, Koster MPH, Baart EB. Longitudinal surface measurements of human blastocysts show that the dynamics of blastocoel expansion are associated with fertilization method and ongoing pregnancy. Reprod Biol Endocrinol. 2022 Mar 19;20(1):53. doi: 10.1186/s12958-022-00917-2. PMID: 35305653; PMCID: PMC8933899.
Các tin khác cùng chuyên mục:












TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK