Tin tức
on Monday 31-03-2025 1:47pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Nguyễn Hoàng Bảo Ngân – IVF Tâm Anh
Hiện nay, độ tuổi sinh con đầu lòng ngày càng tăng do nhiều yếu tố như xã hội, tài chính và sức khỏe. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sảy thai và thất bại làm tổ trong IVF là lệch bội nhiễm sắc thể do tuổi tác, bắt nguồn từ noãn, và tăng đáng kể về tỷ lệ mắc sau tuổi 30. Do đó, trữ noãn vì lý do cá nhân được nhiều người lựa chọn để thực hiện điều trị trong tương lai. Nghiên cứu từ Hiệp hội Công nghệ Hỗ trợ Sinh sản (SART, 2021) ghi nhận tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) giảm theo tuổi mẹ, cần nhiều noãn hơn để có con, và kết quả kém sau 40 tuổi, thậm chí không có ca sinh, dẫn đến khuyến nghị nên đông lạnh noãn trước 35 tuổi.
Nghiên cứu đánh giá kết quả lâm sàng của các chu kỳ rã đông noãn tự thân từ năm 2015–2023 từ các chu kỳ đông lạnh noãn 2008–2022. Phân tích bao gồm cả chu kỳ chuyển phôi tươi và chu kỳ chuyển phôi trữ (FET) có hoặc không có PGT-A.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu trên 332 chu kỳ noãn tự thân được rã đông ở 299 bệnh nhân từ 3182 chu kỳ đông lạnh noãn tự thân (2008 – 2022) vì lý do xã hội, lâm sàng hoặc do sự cố bất ngờ. Tất cả bệnh nhân trở lại để rã noãn từ 2015 đến 2023. Tỷ lệ sống của noãn sau rã, tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) được phân tích.
Kết quả
Đặc điểm nhân khẩu học và chu kỳ
28.184/39131 noãn trưởng thành (MII) được đông lạnh. Từ 2015 – 2023, 299 bệnh nhân đã quay lại thực hiện 332 chu kỳ rã đông, với tỷ lệ quay lại là 14% (299/2171).
Từ 2015 – 2022, tuổi trung bình của bệnh nhân khi đông lạnh là 36,6 (± 3,6) tuổi, AMH trung bình là 13 pmol/l và BMI trung bình là 22,8 kg/m2. 88% bệnh nhân còn độc thân khi trữ noãn, và 89% chu kỳ trữ noãn xã hội có 96% là người độc thân. Đối với nhóm trữ lạnh vì lý do khác, 26% bệnh nhân còn độc thân. Các lý do khác gồm yếu tố lâm sàng/y tế (9%) và sự cố bất ngờ (2%) do không có tinh trùng vào ngày chọc hút.
Ở chu kỳ rã đông, bệnh nhân quay lại có độ tuổi 37,6 (±3,3) khi đông lạnh và 40 (±4,3) khi rã đông. Thời gian lưu trữ noãn trung bình trước rã là 24 tháng. Trong số những người quay lại, 45% trữ noãn trong khoảng 1–5 năm.
Ngoài ra, có 52% bệnh nhân trữ noãn xã hội, 48% vì lý do khác. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ tuổi trung bình mà các nhóm quay lại rã đông (P < 0,001). Nhóm trữ noãn xã hội rã đông ở độ tuổi lớn hơn so với nhóm trữ noãn vì lý do khác (xã hội 41,7 [±3,7] so với lâm sàng/y tế 38,7 [±4], P < 0,001; xã hội so với sự cố bất ngờ 37,1 [±4,2], P < 0,001; lâm sàng/y tế so với sự cố bất ngờ, P = 0,04). Nhóm xã hội quay lại rã đông chiếm 5% so với 37% ở nhóm y tế và 78% nhóm sự cố bất ngờ. Hơn nữa, thời gian lưu trữ trung bình của các nhóm có khác biệt mang ý nghĩa thống kê (P < 0,001), lần lượt là xã hội 48 tháng, lâm sàng/ y tế 5 tháng, sự cố bất ngờ 3 tháng.
Trong các chu kỳ rã đông, 61% chuyển phôi tươi, 39% trữ phôi toàn bộ (freeze all embryo – FAE) với 56% chọn PGT-A. Tỷ lệ bệnh nhân FAE trữ noãn dưới 1 năm cao hơn so với bệnh nhân chuyển phôi tươi (52% so với 31%, P < 0,001). Nhóm bệnh nhân FAE lưu trữ trên 6 năm thấp hơn nhóm chuyển phôi tươi (9% so với 20%, P = 0,008). Phần lớn chu kỳ chuyển phôi tươi thực hiện bởi nhóm xã hội (58%), còn FAE chủ yếu do nhóm lâm sàng (49%).
Các thông số phôi học
3268 noãn MII được rã trong 332 chu kỳ. Tỷ lệ sống trung bình của mỗi chu kỳ là 84%. 65% chu kỳ sử dụng tinh trùng của chồng cho ICSI có tỷ lệ thụ tinh đạt 71%. Tỷ lệ phôi là 49% và có 713 phôi nang được đông lạnh. Tỷ lệ thụ tinh và hình thành phôi nang khác nhau đáng kể giữa chuyển phôi tươi hoặc FET trong lần chuyển phôi đầu tiên (lần lượt là 68% so với 75%, P < 0,001 và 46% so với 52%, P = 0,03). Ngoài ra, có 88% chu kỳ rã đông noãn tạo phôi để chuyển hoặc đông lạnh, và 12% thất bại do thụ tinh không thành công (3%), phôi ngừng phát triển (7%), noãn thoái hóa (1%), hoặc lý do y tế (0,6%).
79 chu kỳ (27%) thực hiện PGT-A, trong đó 61% đạt một phôi nguyên bội để chuyển.
Kết quả lâm sàng
379 phôi được chuyển trong 298 chu kỳ (tươi hoặc trữ), với trung bình 1,3 ± 0,5 phôi mỗi lần chuyển. LBR trên mỗi phôi chuyển là 17% và LBR tích lũy trên mỗi bệnh nhân là 36%.
LBR/chuyển và LBR tích lũy/chu kỳ theo độ tuổi lần lượt là
Chu kỳ trữ phôi toàn bộ (FAE)
130 chu kỳ FAE được thực hiện, mỗi chu kỳ có trung bình 10 noãn rã, tạo ra 2,5 phôi nang. 95% (123/130) chu kỳ có phôi trữ đông, 73 chu kỳ (60%) thực hiện PGT-A với 60% (44/73) có phôi nguyên bội. Sau 80 chu kỳ FET, LBR/chuyển, LBR/phôi chuyển, LBR/chu kỳ, và LBR tích lũy/bệnh nhân lần lượt là 30%, 27%, 39%, và 41%. Bên cạnh đó, PGT-A cải thiện kết quả ở 68% bệnh nhân ≥40 tuổi có phôi nguyên bội và tất cả ca sinh sống từ nhóm này đều có phôi nguyên bội. LBR tích lũy từ chuyển phôi nguyên bội ở bệnh nhân ≥40 tuổi đạt 42%. PGT-A giúp tăng gấp đôi LBR so với phôi chưa xét nghiệm (40% so với 21%).
Bàn luận
Nghiên cứu báo cáo kết quả từ 332 chu kỳ rã noãn tự thân trong 15 năm tại một trung tâm ở Anh, cho thấy bệnh nhân ở mọi độ tuổi lưu trữ có thể đạt LBR chấp nhận được. Mặc dù có ý kiến lo ngại về tỷ lệ thành công của noãn trữ, nghiên cứu này và nhiều nghiên cứu khác cho thấy LBR từ noãn trữ tương đương noãn tươi khi xem xét tuổi và sản lượng noãn. Thực hiện PGT-A giúp tăng LBR, đặc biệt ở bệnh nhân trên 40 tuổi. Ngoài ra, hầu hết bệnh nhân dộc thân trữ noãn xã hội quay lại sử dụng noãn sau khi kết hôn, cho thấy trữ noãn là biện pháp dự phòng.
Nghiên cứu có hạn chế do tính hồi cứu, thiếu so sánh với nhóm noãn tươi và tỷ lệ quay lại thấp (<15%). Tuy nhiên, đây là báo cáo lớn nhất tại Anh, tất cả các phương pháp đều được chuẩn hóa trong một trung tâm duy nhất. Bên cạnh đó, việc sử dụng dữ liệu HFEA và các nghiên cứu so sánh noãn tươi và trữ hiện có, chứng minh LBR khả quan ở bệnh nhân ở độ tuổi 40.
Tóm lại, thủy tinh hóa và rã noãn tự thân là phương pháp đáng tin cậy giúp phụ nữ chủ động việc sinh con. Mặc dù kết quả tương đương IVF tươi, nhưng cần nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có đôi chứng với quy mô lớn hơn để xác nhận hiệu quả so với noãn tươi.
Nguồn: Garratt, J., Shah, T., Mclaughlin, A., Al-Hashimi, B., Macklon, N., Linara-Demakakou, E., & Ahuja, K. K. (2024). Clinical outcomes of vitrified-warmed autologous oocyte cycles with 15-year follow-up at a single UK centre: Consistent and predictable results. Reproductive BioMedicine Online, 50(1), 104376. https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2024.104376
Hiện nay, độ tuổi sinh con đầu lòng ngày càng tăng do nhiều yếu tố như xã hội, tài chính và sức khỏe. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sảy thai và thất bại làm tổ trong IVF là lệch bội nhiễm sắc thể do tuổi tác, bắt nguồn từ noãn, và tăng đáng kể về tỷ lệ mắc sau tuổi 30. Do đó, trữ noãn vì lý do cá nhân được nhiều người lựa chọn để thực hiện điều trị trong tương lai. Nghiên cứu từ Hiệp hội Công nghệ Hỗ trợ Sinh sản (SART, 2021) ghi nhận tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) giảm theo tuổi mẹ, cần nhiều noãn hơn để có con, và kết quả kém sau 40 tuổi, thậm chí không có ca sinh, dẫn đến khuyến nghị nên đông lạnh noãn trước 35 tuổi.
Nghiên cứu đánh giá kết quả lâm sàng của các chu kỳ rã đông noãn tự thân từ năm 2015–2023 từ các chu kỳ đông lạnh noãn 2008–2022. Phân tích bao gồm cả chu kỳ chuyển phôi tươi và chu kỳ chuyển phôi trữ (FET) có hoặc không có PGT-A.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu trên 332 chu kỳ noãn tự thân được rã đông ở 299 bệnh nhân từ 3182 chu kỳ đông lạnh noãn tự thân (2008 – 2022) vì lý do xã hội, lâm sàng hoặc do sự cố bất ngờ. Tất cả bệnh nhân trở lại để rã noãn từ 2015 đến 2023. Tỷ lệ sống của noãn sau rã, tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) được phân tích.
Kết quả
Đặc điểm nhân khẩu học và chu kỳ
28.184/39131 noãn trưởng thành (MII) được đông lạnh. Từ 2015 – 2023, 299 bệnh nhân đã quay lại thực hiện 332 chu kỳ rã đông, với tỷ lệ quay lại là 14% (299/2171).
Từ 2015 – 2022, tuổi trung bình của bệnh nhân khi đông lạnh là 36,6 (± 3,6) tuổi, AMH trung bình là 13 pmol/l và BMI trung bình là 22,8 kg/m2. 88% bệnh nhân còn độc thân khi trữ noãn, và 89% chu kỳ trữ noãn xã hội có 96% là người độc thân. Đối với nhóm trữ lạnh vì lý do khác, 26% bệnh nhân còn độc thân. Các lý do khác gồm yếu tố lâm sàng/y tế (9%) và sự cố bất ngờ (2%) do không có tinh trùng vào ngày chọc hút.
Ở chu kỳ rã đông, bệnh nhân quay lại có độ tuổi 37,6 (±3,3) khi đông lạnh và 40 (±4,3) khi rã đông. Thời gian lưu trữ noãn trung bình trước rã là 24 tháng. Trong số những người quay lại, 45% trữ noãn trong khoảng 1–5 năm.
Ngoài ra, có 52% bệnh nhân trữ noãn xã hội, 48% vì lý do khác. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ tuổi trung bình mà các nhóm quay lại rã đông (P < 0,001). Nhóm trữ noãn xã hội rã đông ở độ tuổi lớn hơn so với nhóm trữ noãn vì lý do khác (xã hội 41,7 [±3,7] so với lâm sàng/y tế 38,7 [±4], P < 0,001; xã hội so với sự cố bất ngờ 37,1 [±4,2], P < 0,001; lâm sàng/y tế so với sự cố bất ngờ, P = 0,04). Nhóm xã hội quay lại rã đông chiếm 5% so với 37% ở nhóm y tế và 78% nhóm sự cố bất ngờ. Hơn nữa, thời gian lưu trữ trung bình của các nhóm có khác biệt mang ý nghĩa thống kê (P < 0,001), lần lượt là xã hội 48 tháng, lâm sàng/ y tế 5 tháng, sự cố bất ngờ 3 tháng.
Trong các chu kỳ rã đông, 61% chuyển phôi tươi, 39% trữ phôi toàn bộ (freeze all embryo – FAE) với 56% chọn PGT-A. Tỷ lệ bệnh nhân FAE trữ noãn dưới 1 năm cao hơn so với bệnh nhân chuyển phôi tươi (52% so với 31%, P < 0,001). Nhóm bệnh nhân FAE lưu trữ trên 6 năm thấp hơn nhóm chuyển phôi tươi (9% so với 20%, P = 0,008). Phần lớn chu kỳ chuyển phôi tươi thực hiện bởi nhóm xã hội (58%), còn FAE chủ yếu do nhóm lâm sàng (49%).
Các thông số phôi học
3268 noãn MII được rã trong 332 chu kỳ. Tỷ lệ sống trung bình của mỗi chu kỳ là 84%. 65% chu kỳ sử dụng tinh trùng của chồng cho ICSI có tỷ lệ thụ tinh đạt 71%. Tỷ lệ phôi là 49% và có 713 phôi nang được đông lạnh. Tỷ lệ thụ tinh và hình thành phôi nang khác nhau đáng kể giữa chuyển phôi tươi hoặc FET trong lần chuyển phôi đầu tiên (lần lượt là 68% so với 75%, P < 0,001 và 46% so với 52%, P = 0,03). Ngoài ra, có 88% chu kỳ rã đông noãn tạo phôi để chuyển hoặc đông lạnh, và 12% thất bại do thụ tinh không thành công (3%), phôi ngừng phát triển (7%), noãn thoái hóa (1%), hoặc lý do y tế (0,6%).
79 chu kỳ (27%) thực hiện PGT-A, trong đó 61% đạt một phôi nguyên bội để chuyển.
Kết quả lâm sàng
379 phôi được chuyển trong 298 chu kỳ (tươi hoặc trữ), với trung bình 1,3 ± 0,5 phôi mỗi lần chuyển. LBR trên mỗi phôi chuyển là 17% và LBR tích lũy trên mỗi bệnh nhân là 36%.
LBR/chuyển và LBR tích lũy/chu kỳ theo độ tuổi lần lượt là
- <35 tuổi: 26% và 56%
- 35–39 tuổi: 20% và 32%
- ≥40 tuổi: 5% và 11%
Chu kỳ trữ phôi toàn bộ (FAE)
130 chu kỳ FAE được thực hiện, mỗi chu kỳ có trung bình 10 noãn rã, tạo ra 2,5 phôi nang. 95% (123/130) chu kỳ có phôi trữ đông, 73 chu kỳ (60%) thực hiện PGT-A với 60% (44/73) có phôi nguyên bội. Sau 80 chu kỳ FET, LBR/chuyển, LBR/phôi chuyển, LBR/chu kỳ, và LBR tích lũy/bệnh nhân lần lượt là 30%, 27%, 39%, và 41%. Bên cạnh đó, PGT-A cải thiện kết quả ở 68% bệnh nhân ≥40 tuổi có phôi nguyên bội và tất cả ca sinh sống từ nhóm này đều có phôi nguyên bội. LBR tích lũy từ chuyển phôi nguyên bội ở bệnh nhân ≥40 tuổi đạt 42%. PGT-A giúp tăng gấp đôi LBR so với phôi chưa xét nghiệm (40% so với 21%).
Bàn luận
Nghiên cứu báo cáo kết quả từ 332 chu kỳ rã noãn tự thân trong 15 năm tại một trung tâm ở Anh, cho thấy bệnh nhân ở mọi độ tuổi lưu trữ có thể đạt LBR chấp nhận được. Mặc dù có ý kiến lo ngại về tỷ lệ thành công của noãn trữ, nghiên cứu này và nhiều nghiên cứu khác cho thấy LBR từ noãn trữ tương đương noãn tươi khi xem xét tuổi và sản lượng noãn. Thực hiện PGT-A giúp tăng LBR, đặc biệt ở bệnh nhân trên 40 tuổi. Ngoài ra, hầu hết bệnh nhân dộc thân trữ noãn xã hội quay lại sử dụng noãn sau khi kết hôn, cho thấy trữ noãn là biện pháp dự phòng.
Nghiên cứu có hạn chế do tính hồi cứu, thiếu so sánh với nhóm noãn tươi và tỷ lệ quay lại thấp (<15%). Tuy nhiên, đây là báo cáo lớn nhất tại Anh, tất cả các phương pháp đều được chuẩn hóa trong một trung tâm duy nhất. Bên cạnh đó, việc sử dụng dữ liệu HFEA và các nghiên cứu so sánh noãn tươi và trữ hiện có, chứng minh LBR khả quan ở bệnh nhân ở độ tuổi 40.
Tóm lại, thủy tinh hóa và rã noãn tự thân là phương pháp đáng tin cậy giúp phụ nữ chủ động việc sinh con. Mặc dù kết quả tương đương IVF tươi, nhưng cần nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có đôi chứng với quy mô lớn hơn để xác nhận hiệu quả so với noãn tươi.
Nguồn: Garratt, J., Shah, T., Mclaughlin, A., Al-Hashimi, B., Macklon, N., Linara-Demakakou, E., & Ahuja, K. K. (2024). Clinical outcomes of vitrified-warmed autologous oocyte cycles with 15-year follow-up at a single UK centre: Consistent and predictable results. Reproductive BioMedicine Online, 50(1), 104376. https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2024.104376
Các tin khác cùng chuyên mục:











TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK